PHÁP THOẠI- Sư Cô Hằng Như

Thiền Tuệ : ” Quán Tâm Trên Tâm”

I. DẪN NHẬP

Khi nói đến thiền Quán là nói đến Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứ là thiết lập Chánh niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp.  Những lần sinh hoạt trước, chúng ta đã học qua phần quán Thân và quán Thọ. Quán Thân có sáu đề mục để thực tập, đó là quán hơi thở; quán bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi;  quán các hành hoạt của thân; quán tứ đại: địa đại, thủy đại, phong đại, hỏa đại; quán 32 thể trược; và quán tử thi. Quán Thọ là quán các cảm thọ nơi thân tâm gồm Khổ thọ là những cảm thọ  buồn phiền, không dễ chịu. Lạc thọ là những cảm thọ dễ chịu, thích thú, hài lòng. Xả thọ là những cảm thọ bình thường không khổ cũng không lạc.

Hôm nay chúng ta bước qua phần thứ ba, đó là “Quán Tâm trên Tâm”.   Muốn quán Tâm, chúng ta cần tìm hiểu xem Tâm là cái gì?

II. KHÁI NIỆM VỀ TÂM

Tâm tiếng Pali là Citta. Theo định nghĩa của A-tỳ-đàm (Abhidhamma), Tâm được dịch là  “cái biết cảnh”  hay “cái bắt cảnh”.  Có cảnh mới có tâm, không có cảnh không có tâm. Con người có sáu cảnh, đó là  Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Tâm nhận biết cảnh qua sáu căn: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân và Ý gọi là Nhãn thức, Nhỉ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức. Như vậy tâm duyên cảnh mà sinh khởi. Từ một trong sáu Thức, phát sinh nhiều tâm khác như: Tâm thương, tâm ghét, tâm vui, tâm buồn, tâm hận, tâm oán, tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm pháp, tâm ấn, tâm bình đẳng, chân tâm, vọng tâm v.v… gọi chung là tâm sở.

Tâm gồm có ba phần: Ý (Mano), Thức (Vinnana), Tâm (Citta). Tên gọi khác là Ý Căn, Ý thức và Trí năng.  Ý hay Ý căn có khả năng tư duy, suy nghĩ về những chuyện đã xảy ra, thường hướng về quá khứ nên trong kinh gọi là Tâm quá khứ. Ý thức thì có khả năng tổng hợp, phân biệt, nhận định… đưa đến quyết định qua lời nói, hành động ngay trong hiện tại nên gọi là Tâm hiện tại. Vai trò của Tâm (hay Trí năng) là huân tập, dung chứa những thông tin từ Ý Căn và Trí năng rồi phát họa ra ý tưởng hành động trong tương lai, nên được xếp là Tâm tương lai. Cả ba gọi chung là Tâm Ba thời.

Về tướng trạng, tâm có hai mặt: Động và Tịnh. Động là mặt nổi. Tịnh là mặt sâu lắng yên lặng.

1) Động hay tướng ảo: Là mặt nổi của tâm, do cảnh vật bên ngoài tác động thông qua sáu căn, nên cảnh hiện khởi trong tâm để cho thức thấy biết. Gọi là động vì lúc nào tâm cũng dao động, bất an, do suy nghĩ; phân biệt phán đoán, vẻ vời của ý căn, ý thức và trí năng. Gọi là ảo, vì tâm thay đổi từng sát-na, lúc vui, lúc buồn, lúc thương, lúc ghét, lúc vầy lúc khác… nên cái biết của nó không thường hằng. Tâm này còn có tên gọi khác là Vọng tâm, Tâm thế gian hay Tâm ba thời.

1) Tịnh hay tướng thật: Chiều sâu bên trong của tâm, tức bản thể của tâm là sự yên lặng, sâu lắng, bất sanh bất diệt. Ở nó, có cái “tự biết” thường hằng bẩm sinh không cần học hỏi. Đối tượng như thế nào nó biết như thế đó, không khen, không chê…  tức không chế định bất cứ điều gì lên đối tượng nên nó được xem là thật tướng. Tên gọi khác của tâm này là Tánh giác, là Chân tâm hay Tự tánh v.v…

Khi tu tập bất cứ pháp môn nào, đức Phật cũng dạy hành giả nên quay về chỗ Thật tướng của tâm, tức quay về Chân tâm, nghĩa là hành giả trở lại sống  với cái Tự tánh chân thật của mình. Thật tướng chỉ thuần là cái “Tự Biết” là cái “Tuệ tri”. Đối tượng hiện hữu nó biết, không có đối tượng, nó cũng biết. Cho nên đặc tính của Thật tướng tâm là thường biết, thường tri.  

III. KINH VĂN “QUÁN TÂM”

Bây giờ chúng ta vào đề mục chính là học phần “Quán Tâm” trong bài Kinh Tứ Niệm Xứ. Kinh ghi như sau:

“Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, với tâm có tham, tuệ tri: “Tâm có tham”; hay với tâm không tham, tuệ tri: “Tâm không tham”. Hay với tâm có sân, tuệ tri: “Tâm có sân”; hay với tâm không sân, tuệ tri: “Tâm không sân”. Hay với tâm có si, tuệ tri: “Tâm có si”; hay với tâm không si, tuệ tri: “Tâm không si”.

 Hay với tâm thâu nhiếp, tuệ tri: “Tâm được thâu nhiếp”. Hay với tâm tán loạn, tuệ tri: “Tâm bị tán loạn”. Hay với tâm quảng đại, tuệ tri: “Tâm được quảng đại”; hay với tâm không quảng đại, tuệ tri: “Tâm không được quảng đại”. Hay với tâm hữu hạn, tuệ tri: “Tâm hữu hạn”. Hay với tâm vô thượng, tuệ tri: “Tâm vô thượng”. Hay với tâm có định, tuệ tri: “Tâm có định”; hay với tâm không định, tuệ tri: “Tâm không định”.

Hay với tâm giải thoát, tuệ tri: “Tâm có giải thoát”, hay với tâm không giải thoát, tuệ tri: “Tâm không giải thoát”.

Như vậy vị ấy sống quán tâm trên nội tâm; hay sống quán tâm trên ngoại tâm; hay sống quán tâm trên nội tâm, ngoại tâm. Hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm; hay sống quán tánh diệt tận trên tâm; hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm. “Có tâm đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm” (hết trích)

       IV. TÌM HIỂU Ý NGHĨA – KINH VĂN 

– Thế nào là “Quán Tâm trên Tâm”: Quán là quan sát, là tuệ tri, là ghi nhận, là hay biết… Chữ Tâm đầu tiên được hiểu là Thức.  Chữ Tâm thứ hai trong “Quán Tâm trên các Tâm” chỉ toàn bộ hệ thống 6 thức của chúng ta. Thức nào trổi lên mạnh nhất thì lấy cái đó làm đối tượng để quán. Quán một thức trong 6 thức đang vận hành gọi là “Quán Tâm trên các Tâm”.

Quán hay Niệm ở đây bao gồm ý nghĩa là quán sát, tuệ tri. Tuệ tri là cái biết trong sáng khách quan. Còn tâm bị quan sát là trạng thái hiện hữu của tâm thức, là những phản ứng của tâm thí dụ như tâm thiện, tâm ác, tâm tham hay tâm sân…  gọi chung là tâm sở.

Quán tâm là ghi nhận, hay biết rõ những gì đang xảy ra nơi tâm, tức những hoạt động ở nơi tâm. Như vậy thiền Quán là nhìn sâu vào sự vật hiện tượng để thấy được hoạt động của nó, từ đâu có nó và bản chất của nó như thế nào.

Trong kinh Tứ Niệm Xứ hay Đại Niệm Xứ, đức Phật đưa ra 16 tâm để hành giả thực tập: 

1) Khi tâm có tham, hành giả tuệ tri tâm có tham. Tâm tham là khi tâm bị dính mắc hay ràng buộc với một ái dục nào đó, chẳng hạn như tài, sắc, danh, thực, thùy… Đây là tâm tham của người thế gian nhằm phục vụ riêng cho cá nhân cho bản ngã của mình. Cũng có loại tham của những vị đã bước vào dòng Thánh, đạt các quả vị: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm. Cái tham của những vị này là lòng mong muốn giúp mọi người tu tập đạt được quả vị thoát khổ giống như mình.  Về tâm tham, đức Phật dạy, khi tâm có tham thì tuệ tri tâm có tham.   

2) Tâm vô tham, tuệ tri tâm vô tham: Quán tâm vô tham nghĩa là khi tâm không tham, hành giả tuệ tri tâm không tham.

3) Tâm có sân, tuệ tri tâm có sân. Tâm sân là tâm buồn bực, bất như  ý, hờn giận thù ghét…  Quán tâm sân, là khi tâm có sân, tuệ tri tâm đang có sân.

4) Tâm không sân, tuệ tri tâm không sân. Quán tâm không sân là khi  tâm không sân, tuệ tri tâm không sân.

5) Tâm có si, tuệ tri tâm có si. Tâm si là tâm nghi ngờ giằng co, lưỡng lự, không dứt khoát giữa hai vấn đề. Nói cách khác si giống như một màn che chắn khiến hành giả mê man không thấy biết một cách đúng đắn những gì đang hiện hữu trước mặt.

6) Tâm không si, tuệ tri tâm không si. Tâm không si, tuệ tri tâm không si.

7) Tâm thâu nhiếp, tuệ tri tâm thâu nhiếp. Tâm thâu nhiếp có hai ý. Ý thứ nhất là tập trung. Thí dụ như thâu nhiếp 6 căn không cho chạy theo 6 trần, hay tập trung tâm vào một đối tượng giúp tâm yên lặng, khi thực hành thiền định. Đây là thiện pháp. Còn ý thứ hai là tâm trạng dả dượi, mệt mỏi, chán chường … là một hình thức của hôn trầm thụy miên, gọi là “tâm co rút”. Trong bối cảnh “quán tâm trên các tâm”, thì tâm co rút được hiểu là tâm mỏi mệt, lười biếng. Khi tâm mỏi mệt, buồn ngủ, lười biếng, thì tâm trí không còn tỉnh táo, không còn sáng suốt, mất chánh niệm không muốn tu tập quán chiếu gì cả, nên nó thuộc về ác pháp.

Khi “tâm co rút” đưa đến sự mất tỉnh giác, đồng nghĩa với sự hay biết của tâm đang co rút giảm thiểu sự sáng suốt.

8) Tâm tán loạn, tuệ tri tâm tán loạn. Tâm tán loạn là phóng dật, thiếu sự tập trung, do suy nghĩ liên tục hết chuyện này sang chuyện khác, tức thân ở chỗ này mà tâm ở chỗ khác. Nó còn có nghĩa là tâm bất an. Quán tâm tán loạn là khi tâm tán loạn, biết rằng tâm đang tán loạn.

9) Tâm quảng đại, tuệ tri tâm quảng đại. Tâm quảng đại là tâm rộng lớn, thông khoáng của các vị  tu thiền đạt được các tầng định như Sơ định, Nhị định, Tam định, Tứ định thì tâm mới đi đến chỗ quảng đại. Tâm quảng đại còn được hiểu là tâm từ, bi, hỷ, xả. Đức Phật dạy khi hành giả đạt được tâm quảng đại thì tuệ tri tâm quảng đại.

10) Tâm không quảng đại, tuệ tri tâm không quảng đại. Tâm không quảng đại là những tâm liên quan đến dục giới. Phật dạy tâm không quảng đại biết rằng tâm không quảng đại.  

11) Tâm hữu hạn, tuệ tri tâm hữu hạn. Tâm hữu hạn là tâm ở trong phạm vi cuộc sống của người thế gian. Khi tâm hữu hạn thì tuệ tri tâm hữu hạn.

12) Tâm vô thượng tuệ tri tâm vô thượng. Tâm vô thượng là tâm thoát ra khỏi tam giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới, là tâm ở trạng thái cao nhất, như tâm của đức Phật khi chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Người bình thường không có tâm này. Đức Phật dạy vị nào tu tập chứng được tâm vô thượng thì tuệ tri tâm vô thượng.

13) Tâm có định, tuệ tri tâm có định. Tâm định là tâm yên lặng ở trạng thái cận định hay nhập định. Tâm có định thì tuệ tri tâm có định.

14) Tâm không định, tuệ tri tâm không định. Tâm không định thì tuệ tri tâm không định.

15) Tâm giải thoát, tuệ tri tâm giải thoát. Tâm giải thoát là tâm thoát khỏi phiền não trong từng sát-na, hay trong thời gian ngắn, đó là tâm minh sát. Hoặc là tâm giải thoát từng phần của các bậc thánh tăng hay toàn phần của các vị A-la-hán. Phật dạy tâm giải thoát, tuệ tri tâm giải thoát.

16)  Tâm không giải thoát, tuệ tri tâm không giải thoát. Tâm không giải thoát, tuệ tri tâm không giải thoát.

 V. THỰC HÀNH “QUÁN TÂM TRÊN CÁC TÂM” NHƯ THẾ NÀO?

Thiền Tuệ hay thiền Quán là thiền để thấy cho được bản chất của sự vật hiện tượng. Sự vật hiện tượng được hiểu là con người (thân-tâm) và cảnh vật bên ngoài. Tất cả sự vật hiện tượng  đều do duyên sinh. Vì duyên sinh nên vô thường, vô ngã. Do duyên sinh nên các sự vật hiện tượng thay đổi theo thời gian một cách khách quan không theo ý muốn của một ai. Vì không thuận theo ý muốn của mình nên mình khổ (dukkha).

Về vấn đề tu tập, thiền Tuệ không bắt buộc hành giả phải tọa thiền với tư thế bán già hay kiết già liên tục như thực hành thiền Định. Thực hành thiền Tuệ, hành giả có thể ngồi yên quán chiếu những gì xảy ra trên thân trên tâm, hay lúc đi, đứng, nằm, ngồi cũng có thể thực hành thiền Tuệ, nếu hành giả giữ chánh niệm, tức ghi nhận những diễn biến nơi thân, nơi tâm bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu.

Điều cần nhớ là hoạt động của tâm như thế nào, rõ biết tâm như thế đó chứ không phải cố làm điều thiện, cố làm những gì tốt hơn tâm hiện tại. Vì khi có “thay đổi đối tượng” thì lúc ấy bản ngã đã xuất hiện. Khi bản ngã xuất hiện thì sự quán sát của hành giả không còn trong sáng khách quan nữa.

Trong Kinh Tứ Niệm Xứ, đức Phật giới thiệu 16 loại tâm thức, để hành giả thực hành bài “Quán tâm”.  Bất cứ tư tưởng, hình ảnh nào hiện hữu trong tâm, thì đó là đối tượng để tâm quán sát. Khi quán sát, hành giả không đưa thêm tư kiến đúng sai, thiện ác, không bóp méo, bẻ cong uốn nắn, tư duy theo ý của mình, cũng không cố gắng giữ đối tượng thiện, xua đuỗi đối tượng ác… nghĩa là không có bản ngã xen vào trong lúc thực hành “Quán Tâm trên Tâm”. Tâm tham biết đó là tâm tham. Tâm sân biết đó là tâm sân. Tâm si biết đó là tâm si… Tâm như thế nào biết rõ, và khi nó chấm dứt lúc nào cũng biết rõ. Quán như thế để nhận ra tánh sanh-diệt, vô-thường – khổ – vô ngã của Danh-Sắc.

Khi trí tuệ nhận ra tất cả mọi thứ hiện hữu trong tâm có sanh có diệt, thì cũng nhận ra tất cả hiện tượng trên thế gian cũng tùy theo điều kiện mà có sanh có diệt, cho thấy tính vô thường-vô ngã của vạn vật. Người có tuệ giác sẽ không dại gì sống nương tựa chấp trước với những thứ không bền vững ở trên đời, mà chỉ an trú trong chánh niệm phát huy chánh trí hướng tới quả vị giải thoát Niết-bàn.

                                             VI. RÚT RA BÀI HỌC

Tu thiền là tu tâm. Tu tâm có hai mặt. Một mặt là tập trung tâm vào một đối tượng nào đó để giúp tâm yên lặng, thoát khỏi tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến… Đó là tu thiền Định. Còn một mặt khác là phát huy trí tuệ bằng cách quán sát mọi hành hoạt trên thân và tâm của chính mình để nhận ra tánh sanh-diệt, tánh vô thường-khổ-vô ngã của thân tâm, thì đó là tu thiền Tuệ, còn gọi là thiền Quán. Từ đó, hành giả không còn nương tựa hay chấp trước một thứ gì ở trên đời.

Ở phần đầu bài, chúng ta có đề cập đến tướng trạng của tâm con người. Rằng tâm con người có 2 tướng trạng, đó là Tướng thật chỉ cho Chân tâm và Tướng ảo chỉ cho Vọng tâm.

– Nếu chúng ta ở chỗ thật tướng của tâm, thì tâm đó có sự “tự biết” , “hay biết” bẩm sinh, mà không phải huân tập, suy nghĩ, hay phân biệt. Cái tâm này, nó sâu lắng yên tịnh, bất động, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, tức không có sự hiện diện của Tâm ba thời: Quá khứ (Ý căn), Hiện tại (Ý thức), Vị lai (Trí năng).

– Còn Ý căn, Ý thức, Trí năng do cảnh trần mà hiện khởi, nên nó là tướng ngoài của tâm. Vì dính mắc với cảnh, nên nó luôn bị dao động. Nó thay đổi liên tục hết cảnh này sang cảnh khác, hết tư duy này đến tư duy khác, không đứng yên một chỗ nên trong giáo lý nhà Phật gọi nó là Vọng tâm. Vọng là không thật.

Như vậy khi tu tập, chúng ta trở về với cái tướng thật của tâm. Tướng thật của tâm chỉ thuần “là cái biết khách quan, trong sáng” nó không tác động thêm bớt vào sự hiện hữu, ngược lại cũng không ai làm chủ được nó. Vì thế người sống với tâm này sẽ không bị ràng buộc bởi những dục vọng phiền não của thế gian.

Trở lại 16 loại tâm, đức Phật dạy chúng ta thực hành quán chiếu trong bài kinh Tứ Niệm Xứ. Có ít nhất là 9 loại tâm rất phổ biến trong đời sống của chúng ta, đó là các tâm: Tham, Sân, Si, Vô tham, Vô sân, Vô si, Thâu nhiếp, Tán loạn, Hữu hạn. Đức Phật dạy khi một trong các loại tâm này xuất hiện, chúng ta không làm gì khác, ngoài việc ghi nhận, quan sát, biết rõ sự hiện diện của nó mà thôi!

Khi quan sát mà trong tâm không khởi lên bất cứ một ý nghĩ nào khác thì lúc đó hành giả đang trú trong tự tánh, tức tướng thật của tâm.

Tóm lại, Quán Tâm có nghĩa là chúng ta sống được với Cái Thật Tướng của mình. Chỗ đó trong kinh gọi là Chân tâm, Chân như, Bình đẳng tánh, Tự tánh hay Pháp giới tánh v.v… Một lần nữa, chúng ta cần ghi nhớ, mục đích tu tập pháp môn nào, đức Phật cũng đều dạy chúng ta hòa nhập với cái thực tướng của tâm.

Đến đây, chúng tôi tạm ngưng bài “Quán Tâm Trên Tâm”. Chúc quý vị hữu duyên, thực hành bài tập “Quán Tâm” tới đâu thành tựu tới đó. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(Sinh hoạt trên zoom ngày 03/11/2024

với thiền sinh Thiền Tánh Không, Houston, Texas)

Chánh Niệm Trên Các Cảm Thọ

Xin bấm vào hình để đọc bài

Chánh Niệm trên Cảm Thọ

Ngũ Căn – Ngũ Lực là Gì

Ngũ căn và ngũ lực tiếng Phạn là Pancindriya và Pancabala. Indriya có nghĩa là nguồn gốc, khả năng để tất cả các thiện pháp sinh khởi. Bala là lực, là sức mạnh. Ngũ căn và ngũ lực là phẩm đôi nhập một trong số 37 phẩm trợ đạo gọi chung là Đạo đế gồm: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Ngũ căn-Ngũ lực, Thất giác chi và Bát chánh đạo.

Ngũ căn là năm yếu tố cốt lõi, là phương tiện thực tiễn hỗ trợ cho việc tu học của hành giả. Năm yếu tố căn bản phát sinh và được làm cho viên mãn theo trình tự duyên khởi Tín-Tấn-Niệm-Định-Tuệ. Và khi ngũ căn được tu tập làm cho sung mãn, thì sẽ biến thành ngũ lực tức tạo ra sức mạnh gồm: Tín lực-Tấn lực-Niệm lực-Định lực và Tuệ lực.

                                        II. Ý NGHĨA VÀ THÀNH PHẦN CỦA NGŨ CĂN

            1) TÍN CĂN  Tín” hay “tin” trong đạo Phật là sự chấp nhận một vấn đề gì bằng sự hiểu biết. Không phải là sự chấp nhận một cách mù quáng, vô điều kiện, bất chấp lý trí. Sự chấp nhận hay lòng tin này chỉ có được, sau khi suy luận sáng suốt và quan sát kỷ càng. Đức Phật không bao giờ bắt buộc Phật tử tin một điều gì mà không thể suy luận, hay không giải thích được.

            Thí dụ như lời Phật dạy về bài pháp Tứ Diệu Đế là pháp nhận ra bốn sự thật. Đó là Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Con đường đưa đến Diệt đế. Muốn thành công trên lộ trình tu tập giải thoát này, hành giả cần phải nghiên cứu pháp học theo lộ trình VĂN-TƯ-TU. Văn tức là nghe giảng. Tư là tìm hiểu rõ ràng ý tứ bài giảng. Tin tưởng nơi Pháp học, rồi mới tu tập sống theo lời dạy của Pháp. Như vậy hành giả có Tín căn vào pháp Tứ Diệu Đế.  Nhờ VĂN tuệ và TƯ tuệ nên hành giả hiểu biết đúng đắn về giáo lý Tứ Thánh Đế. Hiểu biết đời sống thế gian không ai thoát khỏi Khổ. Khổ do nhiều nguyên nhân gây ra. Đó là hai vế đầu của Tứ diệu đế gọi là Khổ đế và Tập đế. Đồng thời hiểu rõ con đường đưa đến Diệt khổ là Đạo đế bát chánh gồm tám yếu tố : Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Hiểu biết như thật về Đạo đế tức Bát chánh đạo, nên hành giả không còn  nghi ngờ, phân vân, lưỡng lự về hai đế: “Khổ diệt và Con đường Khổ diệt”, nên phát sinh lòng  tin mạnh mẽ vào phương pháp hành trì. Đức tin phát xuất qua sự học hỏi hiểu biết như vậy, trong kinh gọi là Chánh Tín, là yếu tố đầu tiên trong Ngũ căn gọi là Tín Căn.

            2) TẤN CĂN: Tấn là tinh tấn. Tấn căn là sự dũng mãnh tinh tấn trên bước đường tu tập không bao giờ thối lui. Khi có lòng tin sâu vào Phật pháp, thì mới cố gắng tu tập. Nếu không, thì niềm tin suông này sẽ trở thành vô dụng, không đưa chúng ta đến đâu cả.

            Tinh tấn là pháp tu mà trong các phẩm trợ đạo đều có như: – Tu “Tứ Niệm Xứ” đức Phật dạy hành giả lúc nào cũng phải “nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm”. Nhiệt tâm đây được hiểu là tinh tấn siêng năng. – Trong “Tứ chánh cần” toàn bộ bốn pháp đều là tinh tấn. Hai tinh tấn phát sinh thiện pháp và hai tinh tấn ngăn chận bất  thiện pháp.  – Trong “Tứ thần túc” thì có Cần thần túc. – “Ngũ căn” thì có Tinh tấn căn. – “Ngũ lực”  thì có Tinh tấn lực.- “Thất giác chi” thì có Tinh tấn giác chi.- “Bát chánh đạo” thì có Chánh tinh tấn. – Trong “Lục độ” thì có Tinh tấn độ. Điều này cho thấy Tinh tấn là yếu tố không thể thiếu trong việc tu học đạo và hành đạo.

            3) NIỆM CĂN: Nói cho đủ là Chánh niệm. Niệm ở đây là chú tâm nhớ nghĩ đến pháp học và pháp hành không để tâm lang thang phóng dật. Chánh niệm là  chi đầu tiên của lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế (Chánh niệm, Chánh định). Khi Chánh niệm có mặt, thì mọi tà niệm, tham, sân, si, mạn nghi, sầu, bi, khổ, ưu, não… vắng mặt. Ngược lại sống trong thất niệm, thì tâm hành giả dễ dàng bị ngũ dục lôi kéo khiến vô minh và tham ái bao trùm.

            4. ĐỊNH CĂN: Khi chánh niệm vững chắc thì thân tâm hành giả gom lại thành một khối duy nhất gọi là định. Định có nghĩa là tâm vắng lặng, yên tịnh.  Trên con đường tu tập Bát chánh đạo, khi Chánh tinh tấn khởi lên, thì phát sinh Chánh niệm liên tục đưa đến trạng thái định gọi là Chánh định bao gồm: – Sơ thiền: Ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm có tứ. – Nhị thiền: Diệt tầm diệt tứ, chứng và trú nhị thiền, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. – Tam thiền: Ly hỷ trú xả, thân cảm lạc thọ mà bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba. – Tứ thiền: Xả lạc, xả khổ, diệt trừ hỷ ưu, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, tâm thanh tịnh nhờ xả. Định được xem là yếu tố thứ tư trên con đường tu học.

            5) TUỆ CĂN: Là yếu tố thứ năm của sự tu học.  Khi một người có đầy đủ trí tuệ về sự sanh diệt các pháp. Vị ấy biết như thật đây là Khổ, biết như thật đây là Khổ Tập khởi, biết như thật đây là Khổ Đoạn diệt, biết như thật đây là Con đường (Bát chánh) đưa đến đoạn tận Khổ.  Đó là người có Tuệ căn.

            Tín-Tấn-Niệm-Định-Huệ là một chuỗi yếu tố kết nối theo quy luật duyên khởi. Trong đó Tín và Tấn do VĂN TUỆ và TƯ TUỆ phát sinh, còn Niệm-Định-Tuệ nhờ TU TUỆ mới phát sinh.

            Thế nào gọi là liên kết theo duyên khởi? Đó là khi hành giả  tin mình có thể tu tập đạt kết quả,  thì mình “không còn buông lung phóng dật”, tức là tinh tấn. Khi không buông lung phóng dật thì mình “trọn vẹn với cái hoàn hảo đang là”, thì đó là niệm. Với pháp hoàn hảo đang là nên “tâm không dao động” nữa, đó tức là định. Cuối cùng “biết rõ cái đang là” đó là tuệ. Cho nên Tín-Tấn-Niệm-Định-Tuệ là một chuỗi pháp nối kết rất  tự nhiên.

                              III. Ý NGHĨA VÀ THÀNH PHẦN CỦA NGŨ LỰC

            Ngũ lực là năm sức mạnh của ngũ căn. Đó là Tín lực, Tinh tấn lực, Niệm lực, Định lực và Tuệ lực. Ngũ căn tăng trưởng, không bị phiền não phá hoại gọi là ngũ lực. Có vị so sánh ngũ căn như năm ngón tay, còn ngũ lực là sức mạnh của năm ngón tay đó. Ngũ lực gồm có:

            1) Tín lực: Là sức mạnh của đức tin, có công năng phá trừ sự nghi ngờ. Tín lực do lòng tin tưởng mạnh mẽ từ Tín căn mà phát sinh.

            2) Tấn lực : Nói cho đủ là Tinh tấn lực. KhiTinh tấn căn được huân tập mạnh mẽ tạo ra một lực, có công năng phá trừ sự biếng nhác của thân tâm, gọi là Tinh tấn lực.

            3) Niệm lực: Do Niệm căn phát sinh. Niệm lực là sức mạnh của sự ghi nhớ trọn vẹn với cái đang là. Nó có công năng đánh tan mọi tà niệm, đưa đến trạng thái Nhất tâm làm viên mãn Định lực. Khi thực hành pháp quán Thân, Thọ, Tâm, Pháp, Niệm lực sẽ làm cho phát triển và viên mãn Tuệ căn.

            4) Định lực: Là sức mạnh của sự tập trung tư tưởng, nó phát sinh từ Định căn. Định lực có công năng diệt trừ sự loạn tưởng, giúp hành giả thoát ra khỏi sự chi phối ràng buộc của tham sân si, ra khỏi sự kiềm tỏa của dục lạc thế gian.

            5) Tuệ lực: Là sức mạnh chấm dứt vô minh. Khi thân tâm gom lại thành một định lực, thì trong khối định lực đó có một sự hiểu biết trực giác vô ngôn, vượt ra ngoài không gian và thời gian. Sự hiểu biết không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian được gọi là Tuệ lực.

            Như vậy Ngũ lực là sức mạnh tiếp nhận do sự kiên trì tu luyện của hành giả về Ngũ căn. Khi năm yếu tố căn bản của sự tu học: Tín-Tấn-Niệm-Định-Tuệ tuần tự khởi lên, và được phát triển viên mãn, thì mỗi một yếu tố sẽ sinh một lực. Lực này là sức mạnh giúp cho người tu vượt qua mọi khó khăn, khắc nghiệt, gian nguy trên con đường tu học tâm linh hướng đến quả vị giác ngộ giải thoát.

IV. KẾT LUẬN

            Tóm lại, Ngũ căn là năm nguồn gốc căn bản phát huy ngũ lực. Tu tập Ngũ căn thuần thục đạt được Ngũ lực, giúp người tu vượt qua mọi sự quyến rủ lôi cuốn bởi dục lạc của đời sống thế gian, không bị lay động bởi tám gió đời: Lợi-Suy, Hủy-Dự, Xưng-Cơ, Khổ-Lạc (Thành công-thất bại; Hạ nhục-tôn vinh; Xưng tán-chê bai; Lo buồn-vui sướng) cản trở con đường tu học hướng đến giác ngộ giải thoát.

            Học Phật, chúng ta thấy Ngũ căn-ngũ lực là năm yếu tố căn bản, năm yếu tố cốt lõi trên con đường tu học, mà đức Phật đã dạy cho một kẻ phàm phu mới bắt đầu, cho đến khi kết thúc trở thành bậc Vô học (A-la-hán). Trong lộ trình tu học hành giả cần phải trải nghiệm đủ năm yếu tố này, thiếu đi, dù một trong năm yếu tố cũng không thể thành tựu quả giải thoát.

            Là thiền sinh, chúng ta cần rút ra bài học quan trọng của “Ngũ căn-Ngũ lực” này là trước khi đặt lòng tin mãnh liệt vào pháp tu nào,  chúng ta cần phải đi đúng theo lộ trình VĂN-TƯ-TU, tức là  phải nghe, phải đọc, tìm hiểu cặn kẻ, hiểu đúng như thật về pháp tu mà ta sắp chọn. Xem pháp tu này có thích hợp với căn cơ của mình hay không? Pháp này có thực sự đưa đến giác ngộ, giải thoát cho người hành trì? Nghĩa là phải có Chánh kiến, Chánh tư duy về pháp học, pháp hành, rồi mới có Chánh tín được! Tiếp theo là Chánh tín là Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh định và sau cùng là phát Huệ tức giác ngộ, giải thoát khỏi mọi phiền não khổ đau.  Chúng tôi tạm dừng bài “Ngũ Căn- Ngũ Lực” tại nơi đây. Kính chúc quý vị hữu duyên thực hành tinh tấn lời Phật dạy. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(Sinh hoạt với Hội Thiền TÁNH KHÔNG

Sacramento và San Jose ngày 22/10/2024)

Ghi thêm: 37 phẩm trợ đạo gồm:

1)  Tứ Niệm Xứ: Tập trung niệm vào bốn phạm trù: Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

2) Tứ Chánh Cần: (1) Việc ác đã sinh, nỗ lực đoạn trừ.. (2) Việc ác chưa sinh gắng không phạm phải.  (3) Nỗ lực tăng trưởng việc thiện đã làm. (4) Chưa làm việc thiện nên cố gắng thực hiện.

3) Tứ thần túc (Tứ Như ý túc): Đây là bốn pháp thiền định. Bốn pháp đó là: Dục thần túc, Tinh tấn thần túc, Tâm thần túc và Quán thần túc.

4)  Ngũ căn-Ngũ lực: Tín căn-Tấn căn-Niệm căn-Định căn-Tuệ căn;  Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực, Tuệ lực.

5)  Thất giác chi (Thất bồ đề phần): (1) Niệm giác chi, (2) Trạch pháp giác chi, (3) Tinh tấn giác chi. (4) Hỷ giác chi, (5) Khinh an giác chi, (6) Định giác chi, (7) Xả giác chi.

6) Bát chánh đạo: (1) Chánh kiến, (2) Chánh tư duy, (3) Chánh ngữ, (4) Chánh nghiệp (5) Chánh mạng, (6) Chánh tinh tấn, (7) Chánh niệm (8) Chánh định.

Thiền Tuệ : Thân Hành Niệm

                                                          I. DẪN NHẬP

 Thân là thân thể của con người. Niệm là ghi nhận, quan sát. Xứ là lĩnh vực, là đề mục để hành giả quan sát tu tập. Thân ở đây là một trong bốn lĩnh vực: Thân, Thọ, Tâm, Pháp trong bài kinh Niệm Xứ (Satipatthàna sutta)  do đức Phật thuyết giảng cho cư sĩ và tu sĩ học Phật, được ghi lại trong Kinh Trung Bộ phẩm số 10, Kinh Trường Bộ phẩm số 22 và tản mạn trong các bộ kinh Nikàya khác.

Học Phật chúng ta biết rằngnếu Bát Chánh Đạo là một bản đồ ghi chú cần thiết cho lộ trình đưa đến Tâm giải thoát, thì Tứ Niệm Xứ tức thiền Tuệ, chính là bức tranh mô tả cụ thể về quá trình thực hiện lộ trình tu tập đưa đến giác ngộ giải thoát rốt ráo.

 Để bắt tay thực hiện từng bước trên lộ trình giác ngộ thì hành giả cần phải nắm vững một số vấn đề mà trong pháp thoại đức Phật đã dạy. Đầu tiên là một số khái niệm như: Tứ Niệm Xứ, Nhiệt tâm, Minh sát, Chánh niệm, Tỉnh giác, hành giả cần phải liễu nghĩa thì mới có thể khám phá được sự thật trên chính thân tâm mình như thế nào?

– Niệm (Sati): Còn gọi là Chánh niệm.Niệm có nhiều nghĩa, nhưng “Niệmở đây có nghĩa là quán sát thấy rõ hoạt động của đối tượng đang quán. Từ Hán Việt gọi là “minh sát”.  Minh là sáng sủa, rõ ràng, sát là quan sát. Quan sát đối tượng một cách rõ ràng không mê mờ, tức là phải quan sát cụ thể, biết rõ ràng tường tận đối tượng, nhưng không có bóng dáng của tham, sân, si, tức bản ngã chen vào mới là “Chánh niệm”, mới là “Minh sát”.

– Tỉnh giác: Giác là biết. Tỉnh là tỉnh táo không mê mờ, Tỉnh giác là biết đầy đủ trong sáng, không tà kiến, điên đảo, không chấp ngã, chấp pháp. Là trạng thái tâm tỉnh táo, sáng suốt, không mê, không uể oải, buồn ngủ hoặc trạo cử lăng xăng. Tâm lăng xăng không thể nào có chánh niệm nơi đối tượng được. Cho nên có chánh niệm nơi đối tượng đồng nghĩa với có tỉnh giác. Vì thế chúng ta thường thấy hai nhóm từ này đi chung với nhau gọi là “Chánh niệm tỉnh giác”.

– Nhiệt tâm: Nhiệt tâm được hiểu là tinh tấn. Tinh tấn ở đây là sự chuyên cần đều đặn, là kiên tâm bền chí, chứ không phải nỗ lực tu mau để đạt mục đích càng sớm càng tốt.  Muốn thành tựu pháp môn thiền Tuệ này, hành giả phải luôn hâm nóng lòng nhiệt huyết, phải giữ lửa tu tập đều đặn miên mật không lười biếng, mà lúc nào cũng chú tâm soi sáng bốn đề mục tu tập của mình. Vì có nhiệt tâm mới có nghị lực vượt qua mọi trở ngại trên đường tu.

II. QUÁN THÂN

Quán thân thể gồm có các đề mục: 1) Quán hơi thở vào, ra. 2) Tứ đại oai nghi: Đi, đứng, nằm, ngồi. 3) Tiểu oai nghi: Các động tác hoạt động của thân. 4) Quán 32 thể trược của thân thể. 5) Quán thân tứ đại: địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại. 6) Quán tử thi: Chín hoặc mười giai đoạn tan rả của tử thi.

                                    1) ĐỀ MỤC “NIỆM HƠI THỞ”

 – Một: Hơi thở vào, hơi thở ra như thế nào thì nhận biết như thế nấy.

– Hai: Thở vào dài hay ngắn, biết rõ. Thở ra dài hay ngắn, biết rõ.

– Ba: Cảm giác toàn thân hơi thở ra, vô; nhận diện được toàn thân hơi thở diễn biến ra, vô… như thế nào, biết như thế ấy.

Cảm giác toàn thân hơi thở vô, nghĩa là khi hơi thở bắt đầu từ cửa mũi, vào cổ họng, xuống lồng ngực và xuống tới bụng (đan điền).  Đó là hơi thở bắt đầu vô và đang vô.

Cảm giác toàn thân hơi thở ra, nhận diện được diễn tiến toàn bộ hơi thở  ra.  Nghĩa là nhận diện hơi thở bắt đầu từ đan điền, ngược lên lồng ngực, lên cổ họng, qua hai lỗ mũi và ra ngoài. Chấm dứt một chu kỳ hơi thở vào hơi thở ra.

– Bốn: Tọa thiền một lúc, thì sự an tịnh tự nhiên đến, hành giả cảm thấy hơi thở nhẹ nhàng, thân tâm dễ chịu. Cảm giác an tịnh toàn thân hơi thở vào, hành giả rõ biết. Cảm giác an tịnh tòan thân hơi thở ra, hành giả rõ biết.

Đây là bốn bước “minh sát” về hơi thở vào, hơi thở ra.

                             2) ĐỀ MỤC QUÁN “BỐN OAI NGHI”  

Kinh Niệm Xứ ghi: …  này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo đi, tuệ tri: “Tôi đi”, hay đứng, tuệ tri: “Tôi đứng”; hay ngồi, tuệ tri: “Tôi ngồi”; hay nằm, tuệ tri: “Tôi nằm”. Thân thể được sử dụng như thế nào, vị ấy biết thân như thế ấy”. (hết trích)

Có nghĩa chính xác là khi đi biết đang đi, đứng biết đang đứng, ngồi biết đang ngồi, nằm biết đang nằm. Ở chỗ này cần lưu ý “đi, đứng, nằm, ngồi” chỉ là diễn tiến của thân hành, nên chúng ta cần hiểu: Cái thân hay là sắc đang đi, hoặc đang đứng, hay đang ngồi, hoặc đang nằm.  Không có “tôi đi đứng nằm ngồi” trong đó. Vì có “tôi” là có bản ngã! Chữ “tôi” được xử dụng trong bài kinh, chỉ nhằm biểu đạt hình mẫu một người đang thực hiện đi hay đứng mà thôi !

                        3) ĐỀ MỤC “CÁC HÀNH HOẠT CỦA THÂN”

Kinh ghi: “Lại nữa, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo khi bước tới bước lui, biết rõ việc mình đang làm; khi ngó tới ngó lui, biết rõ việc mình đang làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rõ việc mình đang làm; khi mang áo Tăng già lê, mang bát, mang y, biết rõ việc mình đang làm; khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rõ việc mình đang làm; khi đại tiện, tiểu tiện, biết rõ việc mình đang làm; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng, biết rõ việc mình đang làm”. (hết trích)

Tất cả hành động diễn ra trên thân, liền biết rõ. Thí dụ: Ngó tới, ngó lui, mặc áo, mang bát, mang y đều biết rõ. Thậm chí đại tiện, tiểu tiện cũng biết rõ. Hành vi lớn nhỏ đều biết từng chi tiết, từng diễn tiến của nó ngay trong thực tại. Nó diễn biến như thế nào thì thấy y như thế đó!

                        4) BA MƯƠI HAI THỂ TRƯỢC CỦA THÂN

Kinh ghi: “Lại nữa này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho tới đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt: Trong thân này: “Đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu và não trong đầu”. (hết trích)

Ngày nay, với y học phát triển, con số cơ quan nội tạng còn có thể nhiều hơn nữa; nhưng 32 thể trược là con số cơ bản về các thành phần bất tịnh của cơ thể của con người do các nhà cơ thể học Ấn Độ thời đức Phật đã phân loại.

Quán tưởng những thứ bất tịnh trên và trong cơ thể con người, để biết rằng, thân thể này vốn được xây dựng trên nền tảng tánh sinh diệt, và có bản chất bất tịnh, hôi hám, khó nhìn, khó chịu đựng. Từ đó, nhận ra câu nói của cổ nhân “lớp da của thân này chỉ là cái bọc đựng xương và những chất bất tịnh”. Nhờnhận ra như thế  hành giả sẽ buông bỏ những đam mê sắc dục, khát ái trên con đường tu tập giải thoát.  

                                 5) ĐỀ MỤC QUÁN “THÂN TỨ ĐẠI”

Kinh ghi: “Lại nữa này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo quán sát thân này về vị trí các giới và sự sắp đặt các giới: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại”.(hết trích)

 Tứ đại là bốn yếu tố lớn kết hợp tạo nên các hình thể vật chất khác nhau trong vũ trụ gọi là Địa đại, Thủy đại, Hỏa đại, Phong đại. Kinh dạy thân thể con người cũng kết hợp bởi Đất, Nước, Gió (Phong), Lửa nên được xem như là tiểu vũ trụ.

– Đất ở đây không phải là “đất” cụ thể, mà là tính chất của đất. Tính chất của đất là cứng (xương, răng), mềm, giản nở (thịt cơ bắp, da).  Tính chất của nước là kết dính và ẩm ướt (máu, nước mắt, nước tiểu, mồ hôi…). Tính chất của hỏa là nhiệt độ lạnh nóng. Tính chất của phong là xê dịch, di động.

                   6) ĐỀ MỤC “MƯỜI TƯỚNG TRẠNG CỦA TỬ THI”

Kinh ghi: “ Lại nữa này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra….

“ Lại nữa này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như nhìn thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kền ăn (linh thứu); hay bị các loài chó ăn; hay bị các loài giả can ăn; hay bị các loài côn trùng ăn….

“Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa; với các xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột lại;… với các xương còn liên kết với nhau, không còn dính thịt nhưng còn dính máu, được các đường gân cột lại;…  với các xương còn liên kết với nhau, không còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột lại;.. chỉ còn có xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia, ở đây là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, nở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương đầu…

“Lại nữa này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn toàn xương trắng màu vỏ ốc… chỉ còn một đống xương lâu hơn một năm… chỉ còn là xương thối trở thành bột… (hết trích)

Đức Phật bày ra Pháp quán mười tướng trạng khác nhau của xác chết với mục đích chỉ ra mặt thật của xác chết. Nhờ quán cảnh ghê rợn này xảy ra trên thân người sau khi chết, hành giả giảm bớt những luyến ái, mê say thân sắc dục khi còn sống, mà tinh tấn tu hành.

 Trên đây là sáu đề mục tu quán thuộc về Thân. Cả sáu đề mục này hành giả quán sát nó xảy ra trên thân một cách tường tận chi tiết mà không có một phản ứng đối kháng hay chấp nhận gì cả. Thực tập như vậy, đức Phật gọi là quán thân trên thân: “Như vậy, vị ấy sống, quán thân trên nội thân hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước vật gì ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thân trên thân” (hết trích)

– Quán thân trên nội thân: Có nghĩa là quán thân của chính chúng ta, là tóc, lông, da, răng v.v…  là cái thân đang có mặt này đây !  

– Quán thân trên ngoại thân: Trong lúc đang quán nội thân, bất chợt có hình ảnh của một người nào đó xuất hiện trong đầu, chúng ta quán ngay trên con người  đó, gọi là quán thân trên ngoại thân.

– Quán tánh sanh khởi, quán tánh diệt tận, quán tánh sanh diệt: Thí dụ như thực hành đề mục hơi thở. Tiến trình sinh diệt của hơi thở qua ba giai đoạn sinh-trụ-(hoại)diệt. Quán lúc khởi động hơi thở vào, là quán tánh sanh khởi. Khi hơi thở ra, tức chấm dứt tiến trình của hơi thở, đó là quán tánh diệt tận.

Thí dụ khác nhờ Quán Thân Tứ đại, nên biết rằng sự hình thành của cơ thể con người do đất, nước, gió, lửa mà thành. Nhờ thực tập như vậy nên chúng ta thấy tấm thân này là sự biểu hiện của danh và sắc, không có cái ta nào trong đó! Tướng đẹp tướng xấu gì cũng chỉ là biểu hiện của sắc thôi. Sắc là sắc, sắc không có tên gọi. Cái tên Ngọc, Liên, Mai, Đào…. gì đó, chỉ là do người đời gán cho để phân biệt sắc này với sắc kia mà thôi!  Hằng ngày quán như vậy, nên thấy thân con người chỉ là danh và sắc, nên phiền não bớt khởi lên.

– Quán thân trên thân: Hai chữ “quán thân” đầu có nghĩa là quan sát ghi nhận một bộ phận nào đó của thân đang tiếp xúc với đối tượng.  

Thí dụ:  Khi đặt bàn tay lên mặt bàn, “lòng bàn tay”  là mộtbộ phận của thân. Thí dụ khác:  Con mắt nhìn quyển sách, “mắt” là một bộ phận của thân. “Tai nghe âm thanh”, tai là một bộ phận của thân.  Chữ “trên thân” thứ hai trong câu là chỉ toàn bộ thân thể người đang  hành trì pháp quán.  

Cuối cùng đức Phật đi đến kết luận: “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước vật gì ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thân trên thân”.

Nhờ luôn an trú chánh niệm trên thân như vậy, hành giả xa lìa mọi dính mắc với bất cứ thứ gì ở trên đời, chỉ dồn nỗ lực tu tập hướng đến chánh trí, chánh niệm. Những vị Tỷ-kheo nào sống như vậy, đức Phật xác nhận rằng vị ấy sống quán thân trên thân.

                                                III. KẾT LUẬN

Tóm lại, Quán Thân như lời Phật dạy thì có 6 đề mục để quán như đã nêu ở trên. Hành giả có thể thực hành thiền Quán bất cứ lúc nào trong ngày. Tùy theo đề mục hành giả chọn mà tọa thiền hay thiền hành (đi bộ) hay thiền nằm. Thông thường người ta chọn đề mục “hơi thở ra vào” khi toạ thiền. Trong lúc tọa thiền có những suy nghĩ, hay những xúc chạm, hoặc cảm giác khởi lên thì hành giả nhận biết nhưng không có phản ứng, rồi trở lại quán chủ đề chánh là hơi thở.

Pháp tu quán Thân giúp hành giả nhận ra cấu trúc của con người chỉ là Ngũ uẩn, là Danh sắc. Danh sắc thuộc pháp hữu vi, có điều kiện, nên Ngũ uẩn chịu quy luật Vô thường-Khổ-Vô ngã, và có mặt ở trên đời này theo chu kỳ Sinh-Trụ-Hoại-Diệt.

Trí tuệ nhận ra tánh sinh diệt của vạn pháp cũng như tánh sinh diệt của Ngũ uẩn, nên hành giả sống không nương tựa, chấp trước bất cứ  vật gì ở trên đời, mà an trú trong chánh niệm, hướng đến chánh trí, giác ngộ giải thoát….

                                          THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(Ngày 7-7-2024; Sinh hoạt với Hội Thiền Tánh Không Houston, TX)

Lộ Trình Giải Thoát trong Đạo Phật

I. DẪN NHẬP

Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó. Cho nên giải thoát có nghĩa là thoát khỏi những trói buộc, vượt thoát thực tại bị giam hãm và được hoàn toàn tự do.

Thí dụ: Như một người đau bệnh, trị hết bệnh, được khỏe mạnh an vui là người đó đã được giải thoát khỏi căn bệnh gây đau đớn thân thể. Một  người tù đến ngày mãn hạn, được tự do về với gia đình, xem như được giải thoát khỏi cảnh bị giam cầm. Một cặp vợ chồng sống chung trong hoàn cảnh chán ghét lẫn nhau, sau cuộc ly dị mỗi người một cuộc sống riêng tư, thì xem như họ đã được giải thoát khỏi ngục tù gia đình. Chuyện giải thoát không phải chỉ bàn ở con người, mà loài vật khi bị ràng buộc cũng muốn được giải thoát. Thí dụ như con chim bị nhốt trong lồng, tuy hằng ngày được chủ chăm sóc cho ăn uống tử tế nhưng nó vẫn cảm thấy tù túng, một ngày kia thoát ra ngoài được tự do, nó sẽ không bao giờ trở lại, vì nó đã được giải thoát.

Trên đây là vài thí dụ mô tả ý nghĩa giải thoát ở ngoài đời. Trong đạo Phật hai từ giải thoát được đề cập tới một cách sâu sắc hơn. Giải thoát theo triết lý nhà Phật là trạng thái tinh thần con người được tự do, tự tại trước những buồn vui, thương ghét, hạnh phúc hay đau khổ của bản thân. Tâm người ấy thanh tịnh tuyệt đối, do đoạn tận những tập khí, đam mê, dục vọng, dập tắt những ngọn lửa ngầm tham, sân, si là gốc rễ của mọi đau khổ. Các bậc thánh nhân này đã chấm dứt dòng nhân quả nghiệp báo, vượt qua biển khổ vô minh, lên bờ giác ngộ giải thoát.

Trên lộ trình tu tập giải thoát trong đạo Phật, thì Niết-bàn là mục tiêu giải thoát cao nhất. Niết-bàn tiếng Phạn là Nirvana, có nghĩa là diệt độ. Diệt độ đây không có nghĩa là triệt tiêu hay tiêu diệt. 

Diệt ở đây có nghĩa là đoạn tận mười Kiết sử là mười thứ trói buộc con người vào dòng nhân quả nghiệp báo. Độ có nghĩa là vượt qua khỏi biển khổ vô minh, lên bờ giác ngộ.

Nói cách khác, Niết-bàn là trạng thái tâm vô tham, vô sân, vô si, vô ái, vô thủ, vô hữu, vô sanh… Trạng thái tâm này tương ưng với Diệt đế trong Tứ thánh đế nghĩa là tâm đã giải thoát ra khỏi những tập nhân gây ra phiền não.

Giải thoát có hai loại: Hữu Dư Y Giải thoát hay Hữu Dư Y Niết-bàn, chỉ các bậc thánh được giải thoát ngay khi còn thân mạng. Tuy sống và sinh hoạt với người bình thường mà vẫn an nhiên tự tại không bị hoàn cảnh thế nhân chi phối. Khi thân hoại mạng chung , thì nhập Vô Dư Y Niết-bàn. Vô Dư Y Niết-bàn là bản thể thường còn, bất sinh bất diệt của vạn pháp hữu tình và vô tình, không thể dùng ngôn từ để diễn tả, cũng không thể dùng Ý căn, Ý thức hình dung đưa ra quan niệm giải thích.

       II. LỘ TRÌNH GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT TRONG ĐẠO PHẬT

Như trình bày ở trên, tất cả mọi người sinh ra ở thế gian này,  không ai là không phiền não, khổ đau. Nhưng nếu người nào cứ ôm lấy phiền não, khổ đau mãi thì trong nhà Phật gọi người đó là vô minh, cho dù người đó có bằng cấp, học vị cao, thành công, giàu có trong xã hội.            

Muốn thoát khỏi phiền não, người tu theo đạo Phật cần nhuần nhuyễn Pháp học và  Pháp hành. Sau khi tu tập có kết quả thì gọi là Pháp thành.

A. PHÁP HỌC: Thông thạo giáo lý Tứ Diệu Đế và giáo lý Duyên Khởi, để biết rằng bất cứ chuyện gì xảy ra cũng có nguyên nhân của nó. Khổ cũng có nguyên nhân gây ra khổ. Nhận ra nguyên nhân rồi, áp dụng pháp tu để loại trừ những nguyên nhân đó, thì thoát khổ. Con người sống ở đời có rất nhiều phiền não khổ đau, nhưng chung quy nguyên nhân gây khổ đau nằm ở ba mặt.

1) Nhóm thứ nhất gây khổ đau là Ngũ dục:  Gồm tài, sắc, danh, thực, thùy.  Bình thường con người khó tránh khỏi năm thứ trói buộc. Đó tiền bạc, nhan sắc, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ. Thuật ngữ trong Phật giáo gọi là ngũ dục. Ngũ dục là năm thứ mà con người luôn khao khát mong muốn chiếm hữu.

 2) Nhóm thứ hai là Ngũ trần: Qua các giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân… tiếp xúc trần cảnh bên ngoài là: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc… nghĩa là mắt thấy cảnh sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi hương, lưỡi nếm những thức ăn, da thịt xúc chạm êm ái… Những thứ này luôn khiến con người có những phản ứng thuận hay nghịch,  đưa đến hành vi và nhận thức tốt hoặc xấu gây phiền não, tạo thành nghiệp. 

3) Nhóm thứ ba là Tâm ô nhiễm: Tâm con người thường có hai mặt thiện và bất thiện. Nếu không khéo kiểm soát tâm ý, thì tâm bất thiện có nhiều cơ hội lấn át tâm thiện. Tâm bất thiện gồm: Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…  Đây là những thứ làm ô nhiễm tâm,  là nguyên nhân gây ra phiền não và luân hồi sinh tử.

B. PHÁP HÀNH: Muốn đạt giải thoát, theo giáo lý nhà Phật là phải thực hành  Giới-Định-Tuệ không có con đường nào khác. Tu Giới-Định-Tuệ tức thực hành theo Bát chánh đạo gồm tám yếu tố: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Thành tựu Bát chánh đạo là thành tựu Giới-Định-Tuệ, có nghĩa là Tâm hành giả được giải thoát khỏi những phiền não trong hiện tại, nhưng chưa hoàn toàn thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Muốn giải thoát rốt ráo, hành giả cần tiếp tục thực hành thiền Tuệ. Tu thiền Tuệ có hai cấp bậc.

1) Quán Anupassana: Nhìn liên tục hiện tượng thế gian bằng con mắt tâm để nhận ra bản thể “Vô thường, khổ (xung đột, bất như ý) và vô ngã “.

2) Vipassana/Minh sát tuệ: Tiếp tục quán sâu vào Thân, Thọ, Tâm, Pháp, thành tựu tuệ giác “Vô ngã cao độ” xả ly toàn bộ tham ái, chấp thủ, tự tại vô ngại trước ngũ dục và ngũ trần, thanh lọc mọi thứ ô nhiễm trong tâm, thành tựu chánh trí đắc Tứ quả A-la-hán.

Bậc A-la-hán đã thành tựu giải thoát luân hồi sinh tử, chấm dứt mọi khổ đau.  Các Ngài sống an lạc trên thế gian. Muốn nhập Niết-bàn ngay khi đắc đạo hay tùy duyên ở lại thế gian trong trạng thái Hữu-dư-y Niết-bàn, hoằng pháp lợi sinh cho đến khi tuổi thọ chấm dứt thì nhập Vô-dư-y Niết-bàn.

                                 III. GIẢI THOÁT TỪNG PHẦN

1. Sơ quả Tu-đà-hoàn: Muốn giác ngộ giải thoát, hành giả tu tập từng bước. Nhờ thông hiểu giáo lý Phật đà, hành giả biết rằng con người do nhiều điều kiện hợp thành nên bản thân này không phải là ta hay của ta, bởi vì ta không thể làm chủ được nó. Cho nên đoạn trừ được quan niệm về thân sắc, không quá đắm say nô lệ nó. Thay đổi nhận thức, có nghĩa là hành giả có chánh tín về pháp học, nên loại trừ được giới cấm thủ và nghi ngờ pháp tu. Hành giả đoạn trừ ba Kiết sử đầu tiên là: Thân kiến, Giới cấm thủ và Nghi ngờ, hành giả bước vào dòng Thánh gọi là Dự lưu. Nếu trong thời gian tu tập, thân hoại mạng chung, thì vị này trở lại kiếp người thêm 7 lần nữa, nên gọi là Thất lai.

2. Nhị quả Tư-đà-hàm: Tiến thêm một bước nữa, hành giả tu tập giảm bớt tham dục và sân hận, đắc Nhị quả Tư đà hàm. Trong kinh ghi khi thân hoại mạng chung vị này tái sanh về cõi người một lần nữa để tu tiếp nên gọi là Nhất lai.

3. Tam quả A-na-hàm: Hành giả đắc pháp nhãn nhìn rõ nguyên nhân gây ra phiền não, nên đoạn trừ 100% tham ái, sân hận, nghĩa là đoạn tận năm thượng phần Kiết sử là: Thân kiến, Giới cấm thủ, Nghi ngờ, Tham dục, Sân hận. Vị này tiếp tục hành trì tu tập hoặc nếu chấm dứt tuổi thọ, thì sanh lên cõi Trời và ở đó tu tập nhập Niết Bàn luôn không còn trở lại đời sống này nữa nên gọi là Bất lai.

4. Tứ quả A-La-hán: Là vị đã đoạn trừ được thêm năm thượng phần Kiết Sử, tức tâm vị này không còn hướng đến: Sắc ái (dính mắc với tứ thiền hữu sắc), Vô sắc ái (dính mắc với tứ thiền vô sắc), Kiêu mạn, Trạo cử và Vô minh. Vị này đã xả ly toàn bộ mười Kiết Sử, không còn tham ái, chấp thủ, tự tại vô ngại trước ngũ dục, ngũ trần, tâm hoàn toàn trong sáng thành tựu chánh trí, đắc quả A-la-hán, an trú trong Hữu Dư Y giải thoát.

                                              IV. KẾT LUẬN

Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra (từ nghiệp cũ, nghiệp mới, ngũ dục, ngũ trần, tham, sân, si). Muốn thoát khổ thì phải tự mình tháo gở những sợi dây ràng buộc đó, chứ không Thần Phật nào cứu rỗi, ban ơn, giáng họa cho mình. Vì thế, muốn nếm được hương vị giải thoát, trước hết hành giả phải tự thân nỗ lực tu hành. Dù theo pháp môn nào, hành giả cũng phải thâm nhập bốn nền tảng giáo lý Tứ Diệu Đế của đạo Phật. Đó là mọi khổ đau của chúng sanh đều phát xuất từ một hay nhiều nguyên nhân. Và những nguyên nhân đó có thể giải trừ bằng đường lối tu tập tám ngành Bát chánh đạo. Đó chính là thực hành Tam Vô Lậu Học: Giới-Định-Tuệ. Hiểu rõ giáo lý Y-duyên tánh để nhận ra sự thật của vạn pháp là “vô thường, bất như ý, vô ngã”, con người sẽ không còn lý do bám víu vào ngũ dục, sân si…  là những nguyên nhân gây khổ đau trong cuộc đời.

Thực hành Giới-Định-Tuệ, đời sống đạo đức của hành giả được thăng hoa, tâm định tĩnh, trí tuệ phát sáng. Kết quả sơ khởi của việc tu tập, giúp hành giả thoát khỏi một số ràng buộc như ý hay bất như ý trong đời sống hằng ngày. Tiếp tục tinh cần hành trì, buông xả mọi khả ái, khả lạc, khả ưu, khả sân…  thường xuyên sống trong chánh niệm, luôn có cái biết trong lành, định tĩnh, sáng suốt, hành giả sẽ thực thụ trải nghiệm trạng thái Xả, là trạng thái tâm bình thản trước mọi vướng bận của cuộc đời. Bấy giờ có thể nói hành giả đã an toàn giải thoát, an trú trong Hữu Dư Y Niết-bàn,/.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(23/6/2024, Sinh hoạt trực tuyến với

Hội Thiền Tánh Không Sacramento và San Jose, California)

Tứ Niệm Xứ là Con Đường Duy Nhất…

I. DẪN NHẬP

Thiền Phật giáo có hai nội dung, đó là  thiền Chỉ và thiền Quán. Mục đích của thiền Chỉ hay Định là tập trung tâm vào một đề mục, không để tâm lang thang suy nghĩ dính mắc với ngoại cảnh, không nghĩ nhớ đến những hành vi trong quá khứ hay tưởng tượng những gì chưa xảy ra ở tương lai. Do đó mà tâm được định tĩnh, không bị tham sân si quấy nhiễu đưa đến phiền não khổ đau. Còn mục tiêu của thiền Quán là “duy trì chánh niệm tỉnh giác” liên tục trên bất cứ hiện tượng nào trổi lên từ thân-tâm, để nhận ra ba tướng “Vô thường-Khổ-Vô ngã” của ngũ uẩn, từ đó ly tham, ly sân, buông bỏ không dính mắc với mọi thứ trên đời đưa đến giác ngộ giải thoát.

Thiền Quán, còn gọi là thiền Minh Sát hay Minh Sát Tuệ. Tiếng Pàli là Vipassana. Vi là “sự khác biệt”. Passanahiểu đúng, thuật ngữ nhà Phật gọi là “chánh niệm tỉnh giác”. Minh là ánh sáng, là trí tuệ. Sát là quan sát.  Minh sát tuệ hay Vipassana là “sự hiểu biết một cách sâu sắc, tường tận đề mục mà hành giả quán chiếu”. Có bốn đề mục để thực hành thiền Quán là Thân, Thọ, Tâm, Pháp gọi chung là Tứ Niệm Xứ.

Những bài kinh về thiền Quán được ghi lại trong Trường Bộ Kinh phẩm 22 có tên là “Đại Niệm Xứ”, trong Trung Bộ Kinh, phẩm 10 có tên là “Tứ Niệm Xứ”, phẩm 119 có tên là  “Thân Hành Niệm”  và bàng bạc rất nhiều trong Bộ Kinh Nikãya như là Tiểu Bộ, Tương Ưng Bộ.

 II. TỨ NIỆM XỨ LÀ CON ĐƯỜNG DUY NHẤT….

Bài kinh Tứ Niệm Xứ xuất phát từ câu chuyện về một pháp thoại do đức Phật dạy cho các đệ tử, mà trong chú giải nói rằng đầu tiên Ngài dạy cho các Phật tử tại gia. Những Phật tử được vinh hạnh nghe bài pháp này là người dân thuộc bộ tộc Kuru ở Kammassadhamma, Tây Bắc Ấn Độ. Về sau đức Phật mới đem bài pháp thoại này giảng cho các đệ tử xuất gia. Muốn tu tập pháp môn thiền Tuệ này, chúng ta cần hiểu rõ lời Phật dạy trong kinh văn. Mở đầu phẩm kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna Sutta), đức Thế Tôn thuyết rằng:

“Này các Thầy, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ.”

Chúng ta hiểu như thế nào về việc đức Phật đã khẳng định đây là con đường duy nhất (Ekãyano maggo) thanh tịnh chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn? Các nhà chú giải đưa ra một số ý nghĩa của con đường độc nhất như sau:   

“1) Con đường duy nhất (ekãyano maggo) ám chỉ một con đường tu thẳng tấp, không ngoằn ngoèo, không ngã rẻ. Đây là một phương pháp hành trì thẳng tấp đưa đến kết quả.

2) Con đường duy nhất, vì trên đường tu, mỗi người tự mình độc hành độc bộ, tự quán chiếu lấy thân tâm mình, cho dù trong thiền đường có đông người cùng tọa thiền.

3) Con đường duy nhất của đấng giác ngộ đã tu tập và thành công. Đó là đấng Thích Ca Mâu Ni. Ngài đã tự mình khám phá ra con đường giải thoát và truyền lại cho chúng ta.

4) Nói con đường duy nhất, vì xưa nay chỉ trong đạo Phật mới có thiền Tuệ.

4) Là con đường độc nhất đưa hành giả thoát ly đau khổ thành tựu chánh trí chứng ngộ Niết-bàn.”

Trên đây là những ý nghĩa do các nhà Phật học giải thích tại sao Tứ Niệm Xứ là con đường duy nhất đưa đến chứng ngộ Niết-bàn.

Tứ Niệm Xứ là con đường duy nhất giúp thanh tịnh chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, quả là lời hứa tuyệt vời của đức Thế Tôn. Với pháp môn này, đức Phật dạy hành giả trực tiếp quán thẳng vào bốn xứ thuộc thân-tâm để nhận ra thân, thọ, tâm, pháp thực chất của nó là vô thường, bất như ý, vô ngã, giúp hành giả nhận ra ngũ uẩn không thực chất tính, nên không cho ngũ uẩn là ta, của ta hay tự ngã của ta. Từ đó đoạn trừ được ngũ dục: Tài, sắc, danh, thực, thùy. Không bị quyến rủ khi các căn tiếp xúc với các trần như mắt thấy cảnh đẹp, tai nghe tiếng ngọt ngào, mũi ngửi hương thơm, lưỡi nếm vị ngon, da thịt xúc chạm êm ái… là những thứ luôn mời gọi con người khao khát chiếm hữu.

Nhờ trực tiếp soi thẳng vào tâm, hành giả nhận ra những ô nhiễm, những bất thiện trong tâm như tham, sân, mạn, nghi, tà kiến gọi chung là tham ái, vô minh. Nhận ra để làm gì? Để thanh lọc chúng ra khỏi tâm trí của mình. Khi tâm trong sạch, thuần khiết thì đó là thanh tịnh.

Nhờ tu pháp môn này, hành giả vượt thoát sầu não, diệt trừ khổ ưu. Sầu não, khổ ưu là những điều bất như ý, là những lo âu, phiền muộn. Là khổ thân, khổ tâm. Khi thân tâm hành giả đã thanh tịnh, thì phiền não khổ đau không còn nữa!

– Thành tựu Chánh trí: Chánh trí có nghĩa là trí tuệ vượt thoát của các bậc thánh do thành tựu thiền Tuệ mà có. Trí này có khả năng đoạn trừ rốt ráo phiền não. Bậc thánh ngoài việc thực tập thánh đạo tám ngành tức Bát chánh đạo, các vị ấy còn phải tu tập thiền Tuệ để thành tựu Chánh trí và Chánh giải thoát mới đạt được Tứ quả tức A-la-hán, chứng ngộ Niết-bàn.

– Niết-bàn là một trạng thái tịch tịnh vô tham, vô sân, vô si, vô ái , vô thủ, vô hữu, vô sanh. Niết-bàn không phải là một cảnh giới, không phải là nơi chốn để con người quy tụ sống chung với nhau. Niết-bàn là một trạng thái chứng đắc của tâm, là một trạng thái trực ngộ của tâm. Muốn hiểu rõ, biết rõ Niết-bàn là gì, thì hành giả phải thực tu, thực chứng, tự mình trải nghiệm mới biết, còn ngôn ngữ lời nói thế gian không sao diễn tả được.

III. BỐN XỨ

Sau khi khẳng định pháp Tứ Niệm Xứ là con đường duy nhất đưa đến giác ngộ, giải thoát luân hồi sinh tử. Đức Thế Tôn giảng tiếp nguyên văn như sau:

 “Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ -kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời”. Đoạn kinh này đức Phật dạy các hành giả phải sống “quán thân trên thân, quán thọ trên thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên pháp” để chế ngự tham ưu ở đời.  

Thực ra, pháp tu Tứ Niệm Xứ sẽ đưa hành giả tiến xa hơn. Đó là đi đến giải thoát, chứng ngộ Niết-bàn như lời tuyên bố của đức Phật, chứ không phải chỉ chế ngự tham ưu ở đời. Nhưng bước đầu cần phải đoạn trừ tham ưu để tâm được thanh tịnh. Điểm quan trọng trong bài học          Quán đầu tiên này, đức Phật dạy phải luôn luôn áp dụng công thức: Nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm”.   Vậy nhiệt tâm, chánh niệm, tỉnh giác là gì?

– Nhiệt tâm: Muốn thành tựu pháp môn thiền Tuệ này, hành giả phải luôn luôn hâm nóng lòng nhiệt quyết, phải giữ lửa tu tập miên mật không lười biếng. Lúc nào cũng chú tâm soi sáng bốn đề mục tu tập của mình. Vì có nhiệt tâm mới có nghị lực vượt qua mọi khó khăn trở ngại trên đường tu. Như một chiếc xe hơi cần có xăng thì đề máy mới nổ. Hết xăng thì máy ngừng chạy và xe nằm yên một chỗ. Xăng là năng lượng để xe di chuyển. Còn nhiệt tâm là năng lượng của người tu tập không thể thiếu.

– Chánh niệm (Sammã-sati): Là một trong tám chi phần của Bát chánh đạo. Niệm có nhiều nghĩa như nhớ, biết, chú tâm, gắn chặt, quan sát v.v… Trong Tứ Niệm Xứ, chánh niệm là sự quan sát những gì xảy ra trong thân tâm mình ngay trong hiện tại bây giờ và ở đây, mà không có phản ứng tích cực hay tiêu cực gì cả. Đối tượng như thế nào thì ghi nhận và biết đúng với bản chất thật của đối tượng đang diễn ra như thế đó. Ở đây đối tượng của Chánh niệm là Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

Nhiệm vụ của Chánh niệm là dán cái tâm của hành giả vào đề mục cần quán niệm, từ lúc khởi sanh, tồn tại cho đến khi biến mất. Để làm gì? Để nhận ra bản thể thật sự của vạn pháp là vô thường, bất như ý và vô ngã. Đồng thời cũng nhận ra tánh sinh diệt của đối tượng. Từ đó hành giả không còn bám víu vào tham dục, sân hận, để tâm thanh tịnh, phát huy Chánh trí đi đến chứng ngộ Niết-bàn.

– Tỉnh giác: Là rõ biết một cách đầy đủ, trong sáng, không tà kiến, điên đảo trên đề mục tu tập. Tà kiến, điên đảo là cái biết chấp ngã, chấp pháp. Tỉnh giác trong Tứ Niệm Xứ là cái biết tự nhiên, thấy sao biết vậy, ghi nhận cái “đang là, như vậy” của đối tượng không phản ứng. Ý nghĩa tỉnh giác ở đây đồng nghĩa với chánh niệm, nên chúng ta thường thấy hai bộ chữ này đi chung với nhau là “chánh niệm tỉnh giác”.

– Quán thân trên thân:  Chánh niệm về thân,nghĩa là hành giả chỉ quán thân thể là thân thể mà thôi. Thân thể đứng yên hay vận hành như thế nào chỉ biết và ghi nhận như thế đó. Tóm lại  là quán cấu trúc của thân thể, diễn biến của thân thể, sự hình thành của thân thể, sự hành hoạt của thân thể… Và trong quá trình quan sát, không có phán đoán đây là đàn ông, đàn bà, trẻ con, người lớn, cao, thấp, mập, ốm, cũng không quan tâm đến màu da chủng tộc  v.v… Hành giả chỉ quán chiếu tuệ tri về thân như chính thân đang là.

Quán niệm thân thể gồm có các đề mục để thực tập như: Hơi thở ra vào. Bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi. Tất cả các động tác hoạt động của thân. 32 thể trược của thân thể. Tứ đại: địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại. Mười giai đoạn tan rả của tử thi.

Quán thân trên thân, giúp hành giả nhận ra thân này không phải là ta, của ta hay tự ngã của ta, nên từ bỏ việc làm nô lệ cho bản ngã.

 – Quán thọ trên  thọ: Hay quán cảm giác nơi cảm giác, có nghĩa là tỉnh giác ghi nhận một cách khách quan những cảm giác hay cảm thọ của mình trổi lên ngay lúc đó: Vui sướng (lạc thọ),  buồn phiền (khổ thọ) hoặc bình thường, không vui sướng cũng không đau khổ (xả thọ), xem chúng khởi lên ra sao, cường độ tăng, giảm và biến mất thế nào. Thí dụ khi có cảm giác vui, hành giả liền biết và ghi nhận: “có một cảm giác vui”.  Có “cảm giác không vừa ý” hành giả liền biết và ghi nhận tâm đang không vừa ý.

Thông thường người ta hay thất vọng khi chứng nghiệm cảm thọ khổ, và phấn khởi vui sướng khi có cảm thọ lạc. Pháp quán thọ, đức Phật dạy, thì quán trong yên lặng, không khởi tâm thích hay không thích. Cảm giác khởi sinh như thế nào, quan sát cường độ tăng, giảm, lên, xuống và tan biến của nó như thế ấy mà thôi!

Quán niệm thọ nơi thọ giúp cho hành giả chứng nghiệm tất cả cảm giác bất luận vui, buồn một cách khách quan bình thản (tâm xả), tránh cho hành giả không bị cảm giác chi phối, tức không bị lệ thuộc vào cảm giác.

 Quán tâm trên tâm: Khi hành thiền, nếu có những ý nghĩ hay tư tưởng phát sinh thì hành giả liền biết và ghi nhận chúng. Dù là ý nghĩ thiện hay bất thiện khởi lên, hành giả chỉ quan sát chúng một cách khách quan không luyến ái hay bất mãn.  Quán sát tâm mình một cách khách quan như vậy giúp cho hành giả thấu đạt bản chất và hành hoạt thật sự của tâm. Thường xuyên niệm tâm trên tâm  sẽ học được cách kiểm soát và điều khiển tâm mình.

Quán pháp trên pháp: Trong phần này đức Phật dạy hành giả quán những pháp thuộc về con số. Thí dụ như quán:

– Năm triền cái: Tham, Sân, Hôn trầm, Trạo cử, Nghi ngờ.  Là 5 hiện tượng ngăn che cản trở thiền Định.

– Ngũ uẩn: Là năm tổ hợp tạo nên tiến trình sống của con người. Đó là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

– Lục nhập: Sáu giác quan hay sáu căn: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý. Và sáu đối tượng của 6 căn là: Hình sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (tư tưởng).

– Thất giác chi (Bảy yếu tố của sự ngộ đạo): Niệm, Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định và Hành xả.

– Tứ diệu đế (bốn sự thật cao quý): Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.

                                           IV. GÚT LẠI

Thiền Tuệ hay thiền Quán là pháp thực hành đặt trọng tâm “chánh niệm tỉnh giác” trên bốn đề mục: Thân, Thọ, Tâm, Pháp… bằng cách ghi nhận, quan sát những diễn tiến xuất hiện trên Thân, Thọ, Tâm, Pháp mà không có Ý Căn, Ý thức, Trí năng can thiệp vào.  Nguyên tắc quán Tứ Niệm Xứ là quan sát đối tượng lúc sinh khởi, tồn tại và biến mất theo chu kỳ Sinh-Trụ-Diệt một cách rõ ràng đầy đủ sáng suốt để nhận ra tánh Vô thường, Vô ngã và tánh Sinh diệt của đối tượng.

Bài viết này chỉ giới thiệu và tìm hiểu sơ khởi đoạn mở đầu của kinh Tứ Niệm Xứ. Sau này, nếu có dịp chúng tôi sẽ đi vào nội dung chi tiết của bài kinh.Trước khi rời bàn phiếm, một lần nữa, kính gởi đến quý vị hữu duyên lời nhắn nhủ của đức Thế Tôn như một lời hứa chắc chắn những ai tu tập theo pháp này sẽ thành tựu Chánh trí và chứng ngộ Niết-bàn: “Này các Thầy, đây là con đường duy nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ.” 

                               Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

                                                        THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

                              (Ngày 02/6/2024, Sinh hoạt với Hội Thiền Tánh Không,

                                        tại Thiền Viện Minh Đăng Quang Houston, TX)

Thế Nào Là Thiền Chỉ ?

Phật sử ghi nhận Thiền đã có từ lâu đời, trước khi Bồ-tát Siddhartha Gautama xuất gia cầu đạo giải thoát. Cụ thể là Bồ-tát đã từng học thiền với hai vị đạo sĩ Ãlãra-Kãlama và Uddaka- Ramãputta. Họ là hai vị thiền sư nổi tiếng ở Ấn Độ thời đó.         

 Thiền tiếng Pali là “bhavana” dùng để chỉ những pháp thực hành nhằm rèn luyện tâm, đưa tâm về với thực tại, chấm dứt mọi vọng tưởng điên đảo, gạn lọc tham sân si, làm chủ tư tưởng cũng như bản thân trong đời sống hằng ngày, đem an lạc lại cho chính mình và  cho mọi người xung quanh….

Thiền theo từ nguyên gốc Ấn Độ. Tiếng Sanskrit là “dhyãna”. Tiếng Pãli là  “jhãna”. Người Trung Hoa dịch theo âm là “Ch’ana”. Chữ Thiền hay thiền-na là dịch theo âm Hán-Việt.

Thiền-na  có hai nghĩa. Thứ nhất là suy tư, tĩnh lự. Tĩnh là yên lặng, lự là tư duy, suy nghĩ. Nghĩa thứ hai là đốt cháy. Đốt cháy cái gì? Đó là đốt cháy các bất thiện pháp, cụ thể là các triền cái và các kiết sử phiền não. Nội dung cơ bản của Thiền Phật giáo gồm Thiền Chỉ (Samatha bhavana) và Thiền Quán (Vipassana bhavana).

 II. THẾ NÀO LÀ “THIỀN CHỈ” ?

Thiền Chỉ, tiếng Pali là “Samatha”.  Nó có một từ nữa mang nghĩa tương đồng gọi là “Samadhi”, tức là Định. “Chỉ” là dừng lại. Tịnh Chỉ là dừng sự suy nghĩ, lăng xăng, tán loạn, chấm dứt sự đuỗi bắt đối tượng, khi một trong  sáu căn tiếp xúc với ngoại cảnh. Khi tâm yên lặng vững chắc thì gọi là định. “Định” có nghĩa là nhiếp tâm, gom tâm, định tâm vào một đối tượng và không để bị chi phối bởi bất cứ một yếu tố nào khác.

 Tại sao cần phải gom tâm lại? Bởi vì tâm con người thường hay suy nghĩ lung tung. Sở dĩ tâm hay dao động, là vì hằng ngày, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý … xem như sáu cánh cửa đều được mở, và như thế khách trần  của mỗi căn được tự do vào ra căn nhà tâm không trở ngại. Như mắt nhìn hình ảnh, vật chất. Tai nghe âm thanh. Mũi ngửi mùi hương. Lưỡi nếm vị. Thân xúc chạm , Ý suy nghĩ.  Tiếp xúc với đối tượng đẹp, hợp với ý mình, thì có ngay cảm giác yêu thích. Hễ yêu thích thì muốn giữ lấy.

Thí dụ như đi siêu thị thấy cái áo đẹp thì muốn mua. Đến quày khác thấy đôi giày vừa ý, cũng muốn mua. Cái gì vừa ý cũng muốn. Khi khởi tâm muốn, tức là khởi niệm tham. Còn như tiếp xúc với đối tượng xấu, bản ngã không ưa không thích, thì đó là tâm sân.  Tham và sân là nguyên nhân gây ra phiền não khổ đau cho con người.   

Muốn dẹp phiền não thì tâm phải đình chỉ tham và sân. Muốn đình chỉ tham hay sân, thì Ý phải yên lặng khi nhận thông tin từ năm giác quan gởi đến.  Yên lặng  bằng cách trói buộc Ý vào một đối tượng duy nhất, chẳng hạn như gom tâm vào hơi thở ra vô, hay trú tâm vào hình tượng đức Thế Tôn v.v… để tâm không chạy lang thang theo ngoại cảnh.  Đó là pháp hành Thiền. Hơi thở, hoặc hình ảnh được xử dụng để nhiếp tâm hay cột tâm trong lúc hành Thiền gọi là “đề mục”.

Tóm lại, khi hành giả dừng suy nghĩ và để tâm theo dõi một đối tượng duy nhất với niệm biết, thì gọi là thiền Chỉ. Thiền Chỉ là pháp tu tập giữ tâm ý ở trạng thái yên tĩnh, có tác dụng dẹp các vọng niệm thường khởi lên những ham muốn, những ưu tư. Hành thiền Chỉ, giúp thân an, tâm an gọi là định.

                                III. CÁC ĐỀ MỤC CỦA THIỀN CHỈ (ĐỊNH)

Sách Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), do ngài Phật Âm(Buddhaghosa) người Ấn Độ soạn thảo. Trưởng lão Nànamoli Thera người Anh tu tại Tích Lan dịch sang Anh văn. Sau này, Ni sư Thích Nữ Trí Hải dịch từ bản tiếng Anh sang Việt ngữ. Sách Thanh Tịnh Đạo có đề cập đến 40 đề mục hành thiền và phân loại như sau: Mười biến xứ, mười bất tịnh, mười tùy niệm, bốn phạm trú, bốn vô sắc xứ, một tưởng và một phân tích.

 – 10 biến xứ: Đất, nước, gió, lửa, xanh, vàng, đỏ, trắng, ánh sáng, hư không. 

– 10 bất tịnh tướng: Là 10 giai đoạn trong tiến trình phân hủy của một tử thi. Đó là thây trướng phình, thây xám xịt, thây máu mủ, thây nứt nẻ, thây bị thú ăn, thây phân lìa, thây rã rời, thây chảy máu, thây bị sâu dòi đục, bộ xương.

 – 10 tùy niệm: Là tùy niệm Phật, tùy niệm Pháp, tùy niệm Tăng, tùy niệm Giới, tùy niệm bố thí, tùy niệm chư Thiên, niệm sự chết, niệm thân (32 thể trược), niệm hơi thở và tùy niệm sự bình an (Niết-bàn).

– 4 phạm trù Từ, Bi, Hỷ, Xả không giới hạn. Những đề tài thiền này còn được gọi là Tứ Vô Lượng Tâm. – 4 Vô sắc là: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đây là những đối tượng đưa đến bốn thiền chứng tương ưng gọi là thiền Vô sắc. – Một đề mục tưởng: Quán tưởng thức ăn bất tịnh – Một đề mục phân tích: Là sự phân tích tứ đại, tức phân tích thân này thành bốn yếu tố đất, nước, lửa, gió.

                                                    IV. NĂM TRIỀN CÁI

 Triền nghĩa là trói buộc. Cái là ngăn che, cản trở.  Năm triền cái là năm kiết sử cản trở hành giả khi tọa thiền.  Đức Phật liệt kê những pháp chướng ngại đó là: Tham, Sân, Hôn trầm/Thụy miên, Trạo cử/Hối quá, Hoài nghi. Hành giả tu thiền cần phải nhận diện nó rõ ràng để diệt trừ nó.

1) Tham dục : Là trạng thái mong cầu dục lạc qua năm đối tượng của giác quan là sắc dáng, âm thanh, mùi hương, vị nếm và cảm xúc. Thí dụ đơn giản như đang lúc ngồi thiền, mà tâm khởi muốn cái này, muốn cái kia, khiến mình không thích ngồi thiền nữa. Cho nên tham dục là triền cái thứ nhất ngăn trở việc hành thiền.  

2) Sân hận: Chỉ trạng thái bực bội, khó chịu vì đau chân, mỏi lưng, mỏi cổ trong lúc ngồi thiền khiến cho tâm hành giả không được yên.

3) Hôn trầm/Thụy miên: Hôn trầm là trạng thái uể oải, lười biếng, chán chường. Thụy miên là trạng thái rủ rượi, thụ động, buồn ngủ. Hai chi pháp hôn trầm, thụy miên này có chung đặc tính là không thích nghi với đề mục tu tập, nó khiến cho niệm biết của hành giả trở nên lỏng lẻo, yếu ớt, rời rạc, và từ đó đưa đến  ngủ gục ngay trong khi thiền mà hành giả không hề hay biết.

4) Trạo cử/ Hối quá : Chỉ trạng thái tâm lăng xăng, bồn chồn, lo lắng,  suy nghĩ lung tung, như con “khỉ chuyền cành” . Khi ngồi thiền chúng ta mới thấy cái tâm mình quá loạn động, nhớ nghĩ lung tung , đó là tâm phóng dật. Còn hối quá là trạng thái đặc biệt của trạo cử, là những lỗi lầm phạm phải từ trước, bây giờ trồi lên  khuấy động tâm. Trạo cử và hối quá có chung tính chất là khuấy động tâm khiến tâm không được an.

5) Hoài Nghi: Là trạng thái nội tâm đặt nhiều câu hỏi rối ren trong lúc hành giả cần yên lặng để tiến sâu hơn vào tâm thức. Thông thường hoài nghi  4 điều: Phật, Pháp, Tăng và học giới. Về đức Phật thì ít nghi. Về Pháp thì tự hỏi:  “không biết pháp đang tu tập có đưa đến kết quả tốt không?” Về học giới thì nghi ngờ: “không biết vị Thầy dạy pháp tu này có thực đúng hay không?” Có khi hoài nghi chính bản thân mình “không biết mình tu tập như vầy có đạt được kết quả gì hay không?” Những thắc mắc nghi ngờ đặt không đúng thời đúng lúc khiến tâm dao động,  làm lu mờ tánh biết thanh tịnh trong lúc tọa thiền.

Năm triền cái này là những pháp chướng ngại khiến hành giả không thể hành thiền được. Trong kinh ví năm loại triền cái giống như năm dạng nước vẩn đục như: – Tham dục giống như tô nước bị pha lẫn các màu xanh, vàng, đỏ, trắng  – Sân giống như nồi nước bị đun sôi sùng sục. – Hôn trầm thụy miên giống như hồ nước bị rong rêu che phủ.  – Trạo hối giống như mặt nước bị gió thổi làm cho gợn sóng. – Nghi được ví như hồ nước bị quậy bùn đục ngầu.

Một thau nước hay một hồ nước bị năm thứ này vẩn đục, thì không thể soi mặt, không thể thấy gì dưới đáy thau. Cũng vậy khi tâm bị năm triền cái ám thì tâm bị ô nhiễm không thể vào định được. Trong kinh Đức Phật ví tâm người ô nhiễm là hồ nước đục. Muốn cho tâm yên lặng trong sạch. Hành giả tu tập làm xuất hiện năm thiền chi, mỗi nhân tố thiền chi sẽ chế ngự được một triền cái.

                                            V. “NĂM THIỀN CHI” LÀ GÌ?

Nhân duyên khiến năm triền cái bị triệt tiêu là năm thiền chi.  Năm thiền chi đó là: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Định (Nhất tâm). Ý nghĩa của các thiền chi như sau:  

 1) Tầm (vittaka): Nghĩa đen là “tư duy”,  là “suy nghĩ ” thường xuất hiện với chữ Tứ trong kinh.  Tầm là tâm sở có nhiệm vụ hướng tâm, mang tâm đến đề mục thiền định. Giống như một con bướm, con ong tìm thấy một bông hoa và hăng hái bay về hướng bông hoa, đó là Tầm.   

 2) Tứ (vicãra): Tứ thường có nghĩa là rà soát, kiểm tra. Ở đây yếu tố Tứ có nhiệm vụ rà soát, neo tâm, duy trì tâm gắn kết trên đề mục thiền. Như vậy Tầm đem tâm đến đối tượng thiền. Còn Tứ neo chắc, dán chắc tầm trên đối tượng thiền ấy.  Canh chừng giữ cho chú bướm đậu trên đóa hoa đó là nhiệm vụ của Tứ. 

3) Hỷ (pĩti): Hỷ là một tâm sở, là sự hứng thú, hân hoan, vui thích trên đối tượng. Như chú bướm hứng thú hút nhụy hoa, đó là Hỷ. 

 4) Lạc (sukha): Lạc là tâm sở có trạng thái dễ chịu, thỏa mãn hài lòng, bình yên, an ổn…  trên đề mục thiền định. Hút mật hoa thoải mái, chú bướm thỏa mãn hài lòng đó là lạc.

5) Nhất tâm (Ekaggatã) hay là định: Là trạng thái an chỉ, yên lặng, bất động trên đề mục khi tất cả các triền cái vắng mặt.

Mỗi thiền chi có chức năng và nhiệm vụ để chế ngự và đoạn trừ mỗi triền cái tiêu biểu. – Chi Tầm hoạt động hướng tâm đến đối tượng, nên chế ngự tâm lười biếng không muốn để ý đến đối tượng, đó là triền cái hôn trầm thụy miên.   – Chi Tứ rà soát, thấy rõ tâm đang dán chặt vào đối tượng, nên đoạn trừ triền cái hoài nghi.  – Chi Hỷ là sự hân hoan vui thích trên đối tượng. Hân hoan vui thích đối nghịch với triền cái sân là bất mãn, không ưa.   – Lạc là tâm sở hài lòng, bình an, đoạn trừ triền cái trạo hối là dao động và hối hận là hối quá. – Nhất tâm hay định, là trụ tâm vững chắc vào đối tượng, không còn quan tâm đến những gì khác nên đoạn trừ triền cái tham dục.

 Bên cạnh chức năng và nhiệm vụ chính là mỗi thiền chi đoạn trừ mỗi triền cái tương ứng.  Các thiền chi cũng làm nhân làm duyên, để hỗ trợ nhau trong việc đoạn trừ năm triền cái. Như Tầm tạo duyên cho Tứ. Tứ tạo duyên cho Hỷ. Hỷ tạo duyên cho Lạc. Lạc tạo duyên cho Định.

VI. BỐN TẦNG THIỀN HỮU SẮC

– Sơ thiền: Muốn chứng Sơ thiền, trong kinh dạy hành giả phải “ly dục, ly bất thiện pháp” và có đủ 5 yếu tố xuất hiện trong tâm, đó là: “Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất tâm”. Khi hành giả ngồi thiền với tâm tĩnh lặng không ham không muốn, không mong không cầu gì hết, thì đó là ly dục. Còn  ly bất thiện pháp, là khi ngồi thiền, tâm hành giả chỉ đặt trên đề mục hành thiền, không nghĩ thiện nghĩ ác, thân ngồi yên một chỗ, không làm phiền hay tổn hại đến bất cứ ai. Nhờ vậy mà có hỷ lạc. Hỷ lạc này có được là do Tầm do Tứ mang đến.  

 – Nhị thiền: Từ Sơ thiền tiến lên Nhị thiền, hành giả tịnh chỉ Tầm và Tứ, chỉ còn Hỷ, Lạc, Nhất tâm, chứng và trú thiền thứ Hai. Một trạng thái Hỷ Lạc do định sanh, không Tầm không Tứ, nội tĩnh Nhất tâm.  Sở dĩ bây giờ hành giả buông Tầm Tứ không trở ngại,  là vì tâm hành giả đã yên lặng vững chắc, không bị hôn trầm hay trạo cử kéo tâm đi lang thang,

– Tam thiền: Từ Nhị thiền, muốn đạt được tầng thiền thứ Ba, hành giả phải ly Hỷ. Nghĩa là hành giả buông yếu tố Hỷ, trú vào tâm Xả tức trú vào tâm Định (Nhất tâm). Bây giờ chỉ còn Lạc và Nhất tâm. Trong kinh ghi hành giả ly Hỷ trú Xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ, mà các bậc Thánh gọi là “xả niệm, lạc trú” chứng thiền thứ Ba.

– Tứ thiền: Hành giả xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu, đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ Tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Đến tầng thứ tư có 4 yếu tố để xả. Thứ nhứt là Lạc. Thứ hai là Khổ. Thứ ba là  Hỷ, và thứ tư Ưu. Bốn yếu tố này thuộc về cảm thọ. Cảm thọ thân thì có Lạc thọ và Khổ thọ. Cảm thọ tâm thì có Hỷ thọ và Ưu thọ. Lạc là sung sướng. Khổ là đớn đau. Hỷ là mừng vui. Ưu là buồn bả. (Khi thân tâm hoàn toàn yên lặng sâu lắng, thì những cảm thọ có từ trước của thân và tâm trồi lên. Thiền gia phải xả bỏ). Trạng thái Tứ thiền là trạng thái tập trung cao độ, nhập định sâu. Có thể nhập định liên tục bảy ngày không ăn, không uống, không ngủ nghỉ, bởi vì vị đó có “Thiền duyệt thực” duy trì được đời sống.

Vậy thì hành giả tu tập qua 4 cấp độ thiền là: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Chúng ta nhớ: Sơ thiền thì có đầy đủ 5 thiền chi. Nhị thiền bỏ Tầm Tứ. Đạt đến Tam thiền phải bỏ thêm Hỷ. Đạt tứ thiền thì bỏ luôn cả Lạc, chỉ còn đúng Định thôi.  Chính cái định này nó giúp thiền gia lắng đọng được tâm tư cắt đứt mọi phiền não. Bốn tầng thiền này gọi là Tứ thiền Hữu Sắc.

Sau khi đắc bốn tầng thiền hữu sắc. Nếu muốn hành giả có thể chọn tu tập tiếp: – Một là chứng bốn tầng thiền vô sắc. – Hai là phát triển các thần thông. – Ba là phát huy trí tuệ bằng thiền Quán (Vipassana) để đoạn trừ các lậu hoặc và giải thoát khỏi luân hồi (samsãra).

                                              VII. BỐN TẦNG THIỀN VÔ SẮC

– Không vô biên xứ: Hành giả nhận thức ở đây là không gian bao la, vô biên, bất tận… không có một ranh giới khởi đầu cũng như tận cùng nào, để có thể nhận thức về nó.

 – Thức vô biên xứ: Sự phát triển của tâm thức không bị giới hạn bởi bất cứ một áp lực nào. “Nhận thức không vô biên xứ” của tầng thiền vô sắc thứ nhất, là đề mục của tầng thiền vô sắc thứ hai, nên tự thân của tầng thiền thứ hai này là “Thức vô biên xứ”.

 – Vô Sở hữu xứ: Nghĩa là nơi “không có gì cả” (vô sở hữu xứ). “Không có gì” là do hành giả không hướng tâm đến đề mục “Thức vô biên xứ” mà chỉ tác ý đến sự phi hữu (không có gì), sự vắng mặt của Thức và tất cả mọi thứ. Thực hành như vậy, hành giả trú vào chỗ “không có cái gì” hết!

 – Phi tưởng phi phi tưởng:Không tưởng, nhưng không phải không có tưởng” nghĩa là một mặt không có tưởng thô, nhưng vẫn còn tưởng vi tế. Với bậc thiền vô sắc thứ tư này, tâm đạt đến mức phát triển tột bực trong thiền Định. Đến đây thiền giả tiếp tục tu tập để nhập vào “Diệt Thọ Tưởng định”.

                                         VIII.  NĂM PHÁP THẦN THÔNG

 Hành giả khi đắc Tứ thiền, nếu muốn có thần thông, vị ấy câu hữu với pháp tu “Tứ Như Ý túc” gồm các yếu tố: Dục, Cần, Tâm (định), Tuệ (quán)…lần lượt hướng đến Túc mạng thông, Thiên nhãn thông, Thiên nhỉ thông, Tha tâm thông, Thần túc thông, sẽ có khả năng đạt các loại thần thông đó.

1) Thần túc thông: Một thân biến thành nhiều thân, độn thổ (đi xuống lòng đất), bay trên trời (đằng vân), đi xuyên qua tường, đi xuyên qua núi v.v…

2) Thiên nhãn thông: Mắt nhìn xa không hề bị ngăn ngại. Có thể ngồi một chỗ mà thấy nhiều nơi khác không trở ngại.

3) Thiên nhỉ thông: Tai có thể nghe được tất cả các loại âm thanh. Nghe tiếng của chúng sanh ở cảnh giới trời, tiếng của chúng sanh ở cảnh giới người. Nghe gần nghe xa không ngăn ngại.

 4) Túc mạng thông: Thấy biết được những kiếp quá khứ của chúng sanh. 

5) Tha tâm thông: Biết được những suy nghĩ, tâm tư của người đối diện..

Người tu thiền Định có thể đắc ngũ thông. Những người tu khác đạo Phật cũng có thể đạt được năm loại thần thông này. Nhưng còn một loại thần thông khác là Lậu Tận Thông thì chỉ  những ai tu theo đạo Phật mới có thể chứng được.

                                                IX. TÓM KẾT

Thiền Chỉ” hay “Thiền Định” là trạng thái tâm chuyên chú vào một cảnh, một đề mục, khiến cho mọi vọng tưởng đều ngưng bặt, tạo sự an vui (sukkha) hỷ lạc cho hành giả. Nhưng phiền não (dukkha) và bản ngã vẫn có mặt sau khi xuất định. Như vậy định chưa hoàn toàn triệt tiêu phiền não. Định chỉ mới đè nén phiền não thôi! Giống như tảng đá lớn đè lên đám cỏ. Rể vẫn còn nằm dưới đất. Khi dời tảng đá đi chỗ khác, thì cỏ có khả năng mọc lại. Cho dù hành giả đạt được các tầng thiền hữu sắc, vô sắc, hay luyện tập đắc các thần thông cũng chưa thể thành tựu sự chứng ngộ Niết-bàn, là mục tiêu tối hậu của đạo Phật. Đó là lý do tại sao mà đức Thế Tôn không dừng lại ở bốn tầng thiền Hữu sắc hay Vô sắc.

 Muốn xuất ly sinh tử, thoát khỏi luân hồi, hành giả phải bước qua giai đoạn thứ hai đó là thiền Tuệ. Thiền Tuệ tức là thiền Quán. Nhờ thiền Chỉ, hành giả đạt được Tâm giải thoát. Nhờ thiền Tuệ, hành giả sẽ đạt được Tuệ giải thoát. Chúng tôi tạm ngưng chủ đề thiền Chỉ nơi đây. Lần sau chúng ta tìm hiểu về thiền Quán. Chúc tất cả quý thiền sinh một ngày an lạc trong tâm Chỉ. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

                                                  THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

                                                              12/5/2024

                  (Sinh hoạt trên zoom với Hội Thiền Tánh Không Houston, TX)

“TU” Trong Đạo Phật

I.  “TU” LÀ GÌ?

Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn. Cái tốt đẹp và lương thiện ở đây dựa trên nền tảng đạo đức không tổn hại người, không tổn hại mình, không tổn hại cả đôi bên.  

Nếu vô tình hay cố ý phạm lỗi lầm gây phiền não cho một người nào đó, hay làm tổn thương bất cứ một con vật nào, người ấy cảm thấy hối hận và có hành động sửa sai bằng cách xin lỗi, bù đắp sự tổn thương cho nạn nhân và nguyện trong lòng sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Hành động sửa sai tích cực này gọi là “tu”. Người sống ở đời mà giữ được tâm trong sạch, luôn có những hành động lời nói thiện lành, hiếu thảo với ông bà cha mẹ, chung thủy với người bạn đời, chăm sóc con cái tử tế…  thì đó cũng là một hình thức “tu” tại gia vậy!

 Nghĩa chữ “tu”  không chỉ là sửa đổi hành động từ xấu sang tốt, mà chữ tu còn mang ý nghĩa là “thực tập” hay “hành trì” một pháp môn nào đó. Chẳng hạn như một người sống trong thiền viện ngoài vấn đề học hỏi kinh điển, người ấy tinh cần trong việc hành trì giới luật, thực tập phòng hộ các căn, tiết độ ăn uống, thực hành tứ thiền v.v… người đó được gọi là “người đang tu”. Như vậy chữ “tu” ở đây còn có nghĩa là “hành trì tu tập”, “giữ gìn thiện pháp”, “buông bỏ ác pháp”….

II. PHÁP “TU” CỦA CƯ SĨ TẠI GIA

Phật tử tại gia phát nguyện nương tựa vào Tam Bảo, thọ trì năm giới là điều cần thiết để tu. Những giới đó được kể như sau:

– Giới thứ nhất tại sao Đức Phật dạy không được sát sanh? Ở đời có loài hữu tình nào không ham sống sợ chết. Là người có tình cảm, chúng ta yêu quý sanh mạng của mình, tôn trọng sanh mạng của người thân mình, thì không có lý do gì hại sinh mạng người, vật, đang sống xung quanh mình.  Chẳng những không giết hại sinh mạng của chúng sanh, mà còn phải hết sức cứu giúp bảo vệ mạng sống của mọi người, mọi loài. Không thể thấy sinh vật hay người bị nạn mà làm lơ không cứu. Ngày nay có nhiều Phật tử chọn trường chay trong việc ăn uống, lại thường hay phóng sanh cá, rùa, ếch nhái, chim muông v.v… cho chúng được tự do thoát khỏi cái chết đang đe dọa. Đó là những việc làm từ bi nhằm bảo vệ sinh mạng loài hữu tình, dù chúng chỉ là loài động vật.

– Giới cấm thứ haikhông được trộm cắp lấy của không cho. Tiền bạc của cải là mạch sống của con người. Muốn cho đời sống được bảo đảm người ta phải làm việc cật lực mới kiếm được đồng tiền nuôi sống gia đình. Nếu bị kẻ xấu trộm mất, thì gia đình người ta lâm vào hoàn cảnh túng thiếu, nhất là những gia đình không được dư giả. Thử đặt mình vào hoàn cảnh kẻ bị trộm thì mình có đau khổ hay không? Cho nên người tu chân chánh thì không được phạm giới trộm cắp, ngược lại nên bố thí giúp đỡ những hoàn cảnh ngặt nghèo, khó khăn, trong khả năng của mình.

 – Giới cấm thứ bakhông tà hạnh mà phải sống với chánh hạnh. Tà hạnh đây là xâm phạm đến tiết hạnh của người khác. Người giữ được giới này bảo vệ được hạnh phúc gia đình. Nếu vợ hoặc chồng chia sớt tình cảm, liên hệ tình dục với người ngoài, sẽ biến gia đình đang hạnh phúc trở thành địa ngục trần gian, noi gương xấu cho con cháu. Cho nên mình muốn bảo vệ tình cảm gia đình mình, thì không nên phá hoại tình cảm gia đình người khác.

– Giới cấm thứ tưkhông nói dối. Sống trong một nhà, chồng vợ nói dối với nhau nhiều lần, khi bị phát giác sẽ làm mất niềm tin yêu của nhau, cuộc sống không còn tự nhiên, là một trong nhiều cơ hội dễ đưa tới sự tan vỡ. Ngoài  cộng đồng, nơi công sở, mình có tật hay nói dối, sẽ có một ngày người ta biết được. Thế là mình sẽ bị mọi người ghét bỏ và xa lánh. Cho nên Đức Phật dạy sống ở đời không nên nói dối, không nói lời lường gạt để thủ lợi, hay chia rẻ người này với người kia, không nói lời hung dữ, tục tằn mà nói lời thanh tao nhẹ nhàng và chân thật.

– Giới thứ nămkhông uống rượu mạnh, ngày nay thuốc phiện, xì ke, ma túy hay những loại thuốc làm thần kinh mê muội, cũng được kể vào giới cấm này. Chất rượu mạnh làm tổn thương nội tạng của người ghiền rượu, làm cho tâm thần người say rượu không phân biệt được phải trái, đúng sai, nên có những hành động lời nói mất lý trí gây tổn hại đến người khác. Ngoài ra, người “nhậu say” lái xe trên đường phố thường gây tai nạn chết người. Khi chuyện đau lòng xảy ra, có hối hận cũng vô ích. Vì thế người nào ghiền nhậu nhẹt, tham dự vào các trò chơi xì ke, ma túy…  là người đã phạm giới.

Gút lại, bước đầu vào đạo, Đức Phật dạy chúng ta phải giữ năm giới. Người tu  năm giới là người sống đạo đức ngoài đời cũng như trong đạo. Đạo đức vì người này đã mang niềm vui, hạnh phúc cho người hay vật sống quanh mình. Khi tạo niềm an lạc hạnh phúc cho người khác, thì chính bản thân mình cũng sẽ hưởng được niềm an lạc hạnh phúc như người ta. Đó là nói khi còn sống trên cõi đời này, đến khi thân hoại mạng chung sẽ sanh về cõi lành. Cõi lành đó, có thể là cõi người, nhờ nhân thiện trong đời sống hiện tại sẽ sanh quả tốt trong đời sống tương lai, được trường thọ, an lạc, hạnh phúc v.v… hay cao thượng hơn được sanh lên cõi trời hưởng phước.

III. “TU” GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT

Tùy theo căn cơ và nguyện vọng của mỗi chúng sanh, trong đạo Phật có nhiều pháp tu cao thấp, khó dễ… khác nhau. Cư sĩ bình thường thọ trì năm giới giữ ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, làm lành lánh dữ, đưa đến kết quả là ngay trong đời sống này, họ được hưởng niềm an vui hạnh phúc. Nhưng có nhiều người muốn tiến xa hơn, mục tiêu của họ là hướng tới giác ngộ giải thoát, những vị đó từ bỏ đời sống gia đình gia nhập vào đoàn người xuất gia học Phật.

Tu giác ngộ giải thoát ngoài việc giữ thân khẩu ý thanh tịnh, Đức Phật dạy các vị ấy phải tu tập và thành tựu các pháp thuộc Giới-Định-Huệ như sau:

1. Giới hạnh: Đầu tiên Đức Phật dạy người tu sĩ phải nghiêm trì Giới hạnh. Người giữ giới hạnh là người thọ trì các Giới do Đức Phật chế lập. Người ấy có đầy đủ oai nghi tế hạnh, thấy sự nguy hiểm của những lỗi từ nhỏ nhặt đến lỗi nặng ảnh hưởng đến đời sống đạo đức nên không dám phạm. Tu sĩ nam tức  Tỷ-kheo thọ trì 250 giới. Tu sĩ nữ tức Tỷ-kheo-ni thọ trì 348 giới.

2. Hộ trì các căn:  Pháp kế đến, Phật dạy người tu phải lo phòng hộ các căn. Các căn đây chính là sáu giác quan của con người.  Đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.  Sáu căn này là sáu cánh cửa tiếp nhận sáu trần cảnh, nó có khả năng  đưa con người đến cảnh giới thanh tịnh giải thoát, hay cảnh giới trầm luân khổ đau, tùy nơi sự tu tập  thân tâm của người đó. Thông thường khi giác quan tiếp xúc với trần cảnh, ngay lúc đó tâm liền  khởi lên tham ái, ưu bi, lo lắng hay phiền não…   Đó là thói quen của người chưa biết tu pháp phòng hộ các căn.

Muốn thoát khỏi phiền não, Đức Phật dạy phải hộ trì các căn, tức giữ cho các căn không bị động bằng cách khi tiếp xúc với đối tượng không nắm giữ tướng chung, cũng không nắm giữ tướng riêng. Nghĩa là khi mắt thấy, tai nghe, lưỡi nếm, mũi ngửi, thân xúc chạm, chỉ biết cái đang là của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tức là tai nghe âm thanh chỉ biết đó là âm thanh. Mắt thấy sắc chỉ biết đó là sắc.  Lưỡi, mũi, thân tiếp xúc với vị, hương, mềm mại mát mẻ như thế nào thì biết như thế thôi, không suy nghĩ phán đoán gì thêm. Tập như vậy lâu dần tâm sẽ không có phản ứng khi các căn tiếp xúc với đối tượng. Đó là cách phòng hộ các căn. Khi các căn không động, thì tâm hành giả sẽ được yên lặng.

3. Tiết độ ăn uống: Ăn uống điều độ không ham thích chọn lựa thức ăn cầu kỳ hợp khẩu vị để trị tánh tham sân. Vấn đề ăn uống ở đây chỉ nhằm giúp duy trì bảo dưỡng thân không bị bệnh đói hành hạ, có thân khỏe mạnh để chấp trì phạm hạnh.

4. Chú tâm cảnh giác: Trong mọi sinh hoạt ban ngày cũng như ban đêm. Khi kinh hành, tọa thiền, tu tập trong bốn oai nghi, tâm trí gột khỏi các chướng ngại pháp như năm triền cái. Đó là từ bỏ tham, sân, tăng lòng từ mẫn thương xót chúng sinh hữu tình. Từ bỏ hôn trầm, tâm luôn tỉnh giác. Từ bỏ trạo cử, nội tâm được yên lặng. Từ bỏ nghi ngờ đối với các thiện pháp, vị ấy thoát khỏi sự phân vân lưỡng lự thẳng tiến một đường tu.

Ngoài ra còn có bảy diệu pháp người tu cần thành tựu đó là: 

1.Tín: Có lòng tin ở sự giác ngộ của Đức Phật. Ngài là bậc A-La-Hán, Chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn.

2. Tàm: Có lòng tự trọng, ghê sợ điều xấu xa tội lỗi.

3. Quý: Cảm thấy xấu hổ khi dư luận biết mình làm điều xấu ác.

4. Đa văn: Nghe, nhớ,  tích lủy những lời Phật dạy bằng cách hành trì tụng đọc, áp dụng vào việc tu tập hằng ngày.

5. Tinh tấn: Siêng năng, chuyên cần tu tập, hướng tâm đến việc thành tựu các thiện pháp, xa lìa các bất thiện pháp.

6. Niệm: Thành tựu niệm tuệ tối thắng. Biết rõ những gì xảy ra ngay trong thực tại.

7. Trí tuệ:  Trí biết rõ vô thường, khổ, vô ngã, biết rõ sự sinh diệt của ngũ uẩn.

Khi thành tựu những pháp nêu trên, Đức Phật khuyên các hành giả tìm chỗ thanh vắng tu tập thiền Định. Hành giả ngồi kiết già, đặt chánh niệm trước mặt,  từ bỏ năm pháp ô nhiễm làm yếu ớt sự phát huy trí huệ đó là tham, sân, hôn trầm, trạo cử,  hoài nghi, thuật ngữ gọi là năm triền cái. 

 – Sơ thiền: Vị ấy ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc, do ly dục sanh. – Nhị thiền: Tầm tứ yên lặng, trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. – Tam thiền: Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác. Thân cảm sự lạc thọ, mà bậc Thánh gọi là “Xả niệm lạc trú”. – Tứ thiền: Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước. Tâm trở nên bất động. Chứng và trú tầng thiền thứ tư. Không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

Phật dạy, hành giả cần tu tập cho đến khi chứng đắc bốn tầng thiền một cách dễ dàng, không khó khăn, không mệt mõi, không phí sức.

Trên đây là các pháp học pháp hành, Đức Phật giảng dạy cho  bậc hữu học, tâm chưa thành tựu vô thượng an tịnh các triền ách. Sau khi thành tựu những pháp nêu trên, bậc Thánh còn phải công phu để tiến xa hơn, đoạn tận lậu hoặc, phát huy trí huệ tâm linh, chứng được ba minh: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh. Đến đây, việc tu hành đã hoàn mãn, các việc nên làm đã làm, đặt gánh nặng xuống. Các Ngài chứng quả A-La-Hán, không còn luân hồi sinh tử nữa.

IV. BỐN THÁNH QUẢ TRONG ĐẠO PHẬT

Con đường tu tập để thành tựu các Thánh quả trong đạo Phật là: Giới-Định-Huệ. Như giới thiệu ở phần trên, giữ Giới là pháp tu đầu tiên cho cả cư sĩ và tu sĩ. Giới là phương thức phòng hộ giác quan, trợ duyên cho thiền Định. Tu Định là an trú vào các đề mục để thanh lọc và tịnh hóa tâm. Tâm định, tăng tiến từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền đến Tứ thiền.

Từ tứ thiền hành giả chuyên tâm tu tập thiền Huệ, quán Vô thường, Vô ngã đoạn trừ năm hạ phần Kiết sử (Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ, Dục, Sân) và năm thượng phần Kiết sử (Hữu ái, Vô hữu ái, Mạn, Trạo cử và Vô minh) để lần lượt chứng đắc bốn quả Thánh:

1. Sơ quả Tu-Đà-Hoàn (còn gọi là Dự lưu, Nhập lưu hoặc Thất lai): Bậc Tu-Đà-Hoàn đắc pháp nhãn, thấy được thân tâm vô thường dẹp được Thân kiến. Hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng, dứt trừ hoài nghi về Tam Bảo. Tuyệt đối tin vào Nhân quả, vị ấy trì Giới, bố thí, tham thiền… không còn mê tín. Tu thiền Quán bậc Tu-Đà-Hoàn dẹp sạch ba Kiết sử đầu là Thân kiến, Nghi và Giới cấm thủ, chứng Sơ quả Tu-Đà-Hoàn, gọi là Thất lai, vì còn tái sanh 7 lần để tiếp tục tu tập chứng đạt quả tối thượng.

2. Nhị quả Tư-Đà-Hàm (Nhất lai): Quả vị này đã đoạn tận được ba Kiết sử đầu là Thân Kiến, Nghi và Giới cấm thủ. Hộ trì các căn làm suy yếu hai Kiết sử kế tiếp là Tham Dục và Sân hận chứng quả Tư-Đà-Hàm, còn một lần tái sanh  để tiếp tục tu tập chứng đắc quả tối thượng nên gọi là Nhất lai.

3. Tam quả A-Na-Hàm (Bất lai): Quả vị này đoạn trừ 100% năm hạ phần kiết sử: Thân kiến, Nghi,  Giới cấm thủ, Dục và Sân. Bậc A-Na-Hàm còn gọi là Bất lai vì không còn tái sanh vào cõi dục. Sau khi thân hoại mạng chung, thường sanh vào cõi Sắc hoặc Vô sắc. Từ đó tu hành và chứng quả tối thượng.

4. Tứ quả A-La-Hán (Bất sanh): Quả vị đã đoạn trừ hoàn toàn mười Kiết sử, gồm năm hạ phần Kiết sử kể trên và năm thượng phần Kiết sử: Hữu ái, Vô hữu ái, Mạn, Trạo cử và Vô minh.

Hữu ái tức là còn luyến ái sự hiện hữu trú vào cõi Sắc. Vô hữu ái tức thích sự không hiện hữu, ưa trú nơi cõi Vô Sắc. Nói cách khác tham đắm vào cõi Sắc và Vô Sắc là sự tham đắm vào bốn tầng thiền-na Hữu sắc và bốn tầng thiền-na Vô sắc tức là còn tưởng, còn tham. Mạn là tâm còn chấp sự chứng đắc. Trạo cử là sự vấy động vi tế của tâm, kể cả sự thao thức về chứng ngộ. Vì còn vi tế lậu hoặc nên vẫn còn vi tế Vô minh. Phải đoạn trừ sạch sẽ lậu hoặc thì mới chứng được quả Bất sanh. Gọi là Bất sanh vì chứng đắc giải thoát, an trú Niết-bàn không còn luân hồi nữa.

V. KẾT LUẬN

Mục đích của Phật Giáo là đoạn tận khổ đau, chứng đắc Thánh Quả giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Trên lộ trình tu tập các vị Thánh đệ tử của Phật phải đoạn trừ mười Kiết sử thông qua việc áp dụng tam vô lậu học: Giới-Định-Huệ.

Trong kinh có dạy người cư sĩ tại gia cũng có thể tu đắc quả A-La-Hán. Muốn đắc quả vị A-La-Hán, vị cư sĩ này đã thực sự cắt đứt tất cả những ràng buộc tham ái về tình cảm gia đình, cũng như vật chất thế gian, và con đường tu tập cũng phải vượt qua lộ trình đoạn tận mười Kiết sử, dẹp sạch lậu hoặc như lời Phật dạy. Nhưng khi chứng quả A-La-Hán, vị này phải xuất gia làm Tỷ-kheo, hoặc chủ động viên tịch ngay. Lý do là hình tướng tại gia không xứng với phẩm vị A-La-Hán. “Kinh Milinda Vấn Đáp” có ghi lại nguyên văn về vấn đề người tại gia chứng A-La-Hán như sau: “Người tại gia nào đạt đến phẩm vị A-La-Hán, đối với vị này chỉ có hai lối đi, không có lối khác: Xuất gia nội trong ngày ấy, hoặc viên tịch Niết-bàn, ngày ấy không thể vượt qua”. (hết trích)

Bài viết này dựa trên kinh Nikãya nhằm cung ứng một vài khía cạnh cần biết trên đường tu học của thiền sinh Phật tử muốn tìm hiểu lộ trình tu tập trong đạo Phật như thế nào. Thực ra, trên con đường tu hướng đến giải thoát giác ngộ, Đức Phật có rất nhiều phương thức, tùy căn cơ của mỗi người mà Ngài chỉ dạy, nhưng phương thức nào cũng phải thông qua Giới-Định-Huệ. Trước khi rời bàn viết, chúng tôi nguyện chúc lành đến tất cả quý độc giả, quý Phật tử có duyên lành với Phật pháp, sớm lãnh hội được pháp học và pháp hành, sống một đời từ bi, trí tuệ, và hạnh phúc.

 Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

                                      THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

            (March 06-2024 An cư Kiết Xuân tại TV. CHÂN NHƯ, Texas)

Tài liệu:  

-Kinh Trung Bộ I: Bài 39 và 40: Kinh Xóm Ngựa.- Kinh trung Bộ II-Bài 53: Kinh Hữu Học. -Bài 61: Giáo Giới La-Hầu-La ở rừng A-bà-la. Bài 62: Đại Kinh Giáo Giới La-Hầu-La.-Kinh Trung Bộ III-Bài 147: Tiểu Kinh Giáo Giới La-Hầu-La- Kinh Milinda Vấn Đạo: “Câu hỏi về người tại gia chứng A-La-Hán”

Tìm Hiểu “TÂM” trong Đạo Phật

Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm. Thân là vật chất, có thể nhìn thấy và sờ mó được, nhưng tâm thì không. Vậy tâm ở đâu trong cơ thể con người? Người xưa cho rằng tâm chính là quả tim. Ngày nay khoa học cho rằng tâm phát xuất từ bộ não, là nơi mà hệ thần kinh trung tâm hoạt động chi phối toàn thân. Người ta phân biệt tâm có ba cơ chế, đó là tâm tư duy, tính toán, lý luận, tâm này thường  nhớ nghĩ về chuyện quá khứ, nên tương ưng với Ý Căn trong nhà Phật, tiếng Pàli là “Mano”.  Tâm phán đoán, vẻ vời những hình ảnh ở tương lai, nằm cạnh Ý Căn, gọi là Trí Năng, tiếng Pàli là “Citta”. Cả hai Ý Căn và Trí Năng nằm ở phía trước vỏ bán cầu não trái. Còn tâm nhận thức phân biệt là Ý thức nằm ở phía trước vỏ bán cầu não phải, tiếng Pàli là “Vijnana”. Phân chia là như vậy, nhưng khi nói đến một, tức là nói đến cả ba, gọi chung là Tâm.

Hỏi Tâm là gì, làm sao thấy được Tâm, thì được các học giả giải thích tâm là sự suy nghĩ, phán đoán, nghi ngờ, thất vọng, buồn phiền, thương yêu, nhung nhớ, ganh ghét v.v… Những yếu tố tinh thần thuộc trừu tượng vừa kể không thấy được, nhưng người ta có thể cảm nhận tâm qua hành động, lời nói của cơ thể mà biết có tâm hiện diện.

Thí dụ một người đang lúc giận dữ. Giọng nói cộc cằn, to tiếng, có khi chửi bới nặng nề đối phương. Hành động thô lỗ, đánh đập, quậy phá đồ đạc trước mặt v.v…Tùy theo mức độ của hành vi và lời nói, mà chúng ta thấy được tâm người đó đang sân giận nhiều hay ít. Cùng là một người, nhưng âm hưởng của lời nói nhẹ nhàng, cử chỉ dịu dàng đoan trang, ánh mắt nhu mì hiền lành v.v… Hình ảnh này biểu lộ tâm người đó ở trong trạng thái quân bình, an lạc.

Như vậy, tuy chúng ta không thấy tâm, nhưng rõ ràng tâm là ông chủ chỉ huy, tạo tác cả một đời người. Nó làm cho đời sống con người có lúc hạnh phúc, có lúc phiền não.

Trong thời gian qua, đã có rất nhiều nhà Tâm lý học, các nhà triết học, các nhà nghiên cứu về tôn giáo đã từng đưa ra nhiều bình luận về tâm. Trong bài viết này, chúng ta chỉ tìm hiểu khái quát về tâm trong phạm vi Phật học để áp dụng vào đời sống tu tập hướng đến giác ngộ giải thoát mà thôi!

I. HIỂU “TÂM” THEO PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

Là một vị đại giác ngộ, đức Phật Thích Ca nhận ra đời người ai cũng khổ. Khổ là một chân lý. Hễ có thân là có khổ, mà khổ do đâu sanh? Đó là do tâm con người sanh ra. Muốn diệt khổ, trước hết chúng ta phải tìm hiểu khi nào tâm giúp con người được an lạc hạnh phúc, khi nào tâm khiến con người ưu phiền sầu não. Nghĩa là phải tìm hiểu tâm là gì và dụng của tâm ra làm sao?

Kinh Pháp Cú (Dhammapada), Phẩm Song Yếu, Đức Phật xác nhận tâm là ông chủ, tâm chỉ huy,  tạo tác hành động của con người. Nếu con người hành động nói năng theo sự chỉ huy xấu xa của tâm thì sự khổ sẽ theo nghiệp xấu đến với người ấy như bánh xe lăn theo chân con vật kéo, không tránh né vào đâu được. Ngược lại nếu nói năng hay hành động với tâm thanh tịnh thì người đó được vui vẻ hạnh phúc như bóng theo hình. Đoạn văn đó như sau:

“1. Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.

“ 2. Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói hoặc làm với tâm thanh tịnh, sự vui vẻ sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình” .  (hết trích)

Như vậy, chỉ một tâm mà có nhiều trạng thái khác nhau, tựu trung xếp thành hai loại. Tâm gây đau khổ, trong nhà Phật ví tâm đó là hồ nước đục, là tâm ô nhiễm, là tâm của kẻ phàm phu. Tâm giúp an lạc hạnh phúc cho con người, trong nhà Phật ví tâm này như hồ nước trong, là tâm thanh tịnh của bậc thánh.

Theo đạo Phật, con người là một hợp thể của năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, gọi chung là Danh Sắc. Sắc là vật chất nên không có cái biết. Cái Biết theo Phật giáo Nguyên Thủy do đức Phật thuyết là cái biết của  Tâm,  tức cái biết của Thọ, Tưởng, Hành, Thức. “Biết” trong đạo Phật gọi là “Thức”. Thức là sự biết, sự nhận thức phân biệt của sáu căn khi tiếp xúc với sáu trần sẽ phát sinh các thức như: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.

Khi các căn tiếp xúc với các trần có cái biết, có cái nhận thức, thì đó là cái tâm biết, còn gọi là tâm thức. Khi nào tâm suy nghĩ, toan tính thì đó là tâm hành. Khi tưởng nhớ quá khứ hoặc tưởng tượng hình ảnh nào đó ở tương lai thì đó là tâm tưởng. Khi cảm giác vui buồn sướng khổ xuất hiện, đó là tâm xúc cảm. Tâm xúc cảm cóhai loại: Nóng lạnh hay thân thể đau nhức thì gọi là thân thọ, khi vui buồn, sướng khổ thì đó là tình cảm hay tâm thọ. Bốn cái biết của Thọ, Tưởng, Hành, Thức này chính là Tâm, hay đúng hơn đó là 4 công năng của Tâm.

II. HIỂU “TÂM” THEO A-TỲ-ĐÀM (VI-DIỆU-PHÁP)

Theo Tạng luận A-tỳ-đàm (Abhidhama), hay Vi-diệu pháp, định nghĩa tâm là sự biết, hay nhận thức biết về trần cảnh (đối tượng). Sự nhận thức này đơn thuần là cái biết, không phân biệt tốt xấu, ưa hay không ưa. Khi có so sánh, phân biệt tốt hay xấu, là đã có tự ngã xen vào.  

Đặc biệt của Vi-diệu-pháp là nói về lộ trình tâm, tức sự diễn tiến của một dòng tâm sinh diệt. Theo Vi-diệu-pháp thì tâm con người là dòng tâm thức hay luồng tâm thức có tất cả 89 tâm vương và 52 tâm sở, nối tiếp nhau khởi lên rồi diệt. Có 4 thứ tâm được xếp loại tùy theo cõi giới, đó là  tâm dục giới, tâm sắc giới, tâm vô sắc giới và tâm siêu thế, tức là tâm vượt ra ngoài tam giới.

Vi-diệu-pháp phân tích tâm rất chi ly phức tạp trên hai phương diện Vật lý và Tâm lý của con người, được gọi là Tâm lý học Phật giáo,  cho nên với bài viết ngắn này không thể trình bày đầy đủ theo mô hình A-tỳ-đàm, mà chủ yếu chỉ giới thiệu phớt qua trên bề mặt, đó là nói đến việc nhận biết tâm, công dụng của tâm là cái biết của con người mà thôi!

                   III. HIỂU “TÂM” THEO QUAN NIỆM CỦA DUY THỨC HỌC

Duy Thức hay Duy Tâm cũng là một môn Tâm lý học của Phật giáo, nhưng thuộc Đại thừa, xuất hiện vào khoảng 9 năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Lúc đó ở Bắc Ấn có 2 anh em Bà-la-môn tên là Vô Trước và Thế Thân xuất gia đắc quả A-la-hán. Theo truyền thuyết, ngài Vô Trước dùng thần thông lên cung Trời Đâu-Suất để nghe Bồ-tát Di-Lặc giảng dạy về Duy thức. Ban đêm đi nghe, ban ngày giảng lại cho đại chúng. Người em là Thế Thân, ban đầu tu theo Tiểu thừa, sau nghe lời khuyên của anh, chuyển sang Đại thừa. Ngài là tác giả của các bộ luận về Duy Thức như: Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận, Duy Thức Nhị Thập  Tụng, Duy Thức Tam Thập Tụng. Hai ngài Vô Trước và Thế Thân được xem như là Sơ tổ của Duy Thức tông ở Ấn Độ.

Vào khoảng thế kỷ thứ 7 Tây lịch, đời nhà Đường bên Trung Hoa có Tam Tạng pháp sư Trần Huyền Trang sang Ấn Độ thỉnh kinh, và thọ giáo môn Duy thức với ngài Giới Hiền tại Tu viện Nalanda. Trở về Trung Hoa, ngài truyền bá môn Duy thức và trước tác 2 bộ luận Thành Duy Thức và Bát Thức Quy Củ Tụng. Ngài Huyền Trang được xem là Sơ tổ Duy Thức tông Trung Hoa.

Duy Thức học chia tâm ra thành 8 tâm vương và 51 tâm sở. Chữ tâm ở đây cũng đồng nghĩa với chữ thức. Tám tâm vương là tám dạng biết của tâm gồm 8 thức: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức, Mạt-na thức, A-lại-da thức. Sáu thức đầu từ Nhãn thức tới Ý thức là cái biết của 6 căn.

Duy thức phân biệt Ý căn là một cơ năng hay giác quan, do đó Ý căn còn có tên là Mạt-na thức. Ý thức nương vào Ý căn mà phát sinh. Ý căn nương vào A-lại-da thức là thức căn bản để phát sinh. Khi hình ảnh qua 6 cửa sổ giác quan thì phát sinh ra lục thức. Riêng cái cửa sổ Ý căn được xem như là một thức, tức Mạt-na thức. Tìm hiểu một chút về  A-lại Da, Ý căn và Ý thức theo Duy Thức tông:

1. A-lại-da thức còn gọi là tàng thức có 3 nghĩa:

a) Năng tàng : Gọi năng tàng vì Thức này như là một cái kho chứa đựng và gìn giữ chủng tử của các pháp không phân biệt thiện ác.

b) Sở  tàng: Thức này bị ảnh hưởng vướng mắc bởi chính những chủng tử được chứa trong nó.

c) Ngã ái chấp tàng: Bị thức thứ 7 là Mạt-na bám víu và chấp là ta tức ngã. Nó làm nền tảng cho 7 thức kia phát sinh nên còn được gọi là căn bản thức, nó rộng lớn tiềm ẩn sâu xa và chứa đựng tất cả chủng tử nghiệp trong dòng tâm thức.  Tính chất của nó là vô phú vô ký, không thiện cũng không ác, nhưng lại chứa đủ cả hai loại chủng tử thiện và ác. Ngày nào nó còn chứa những chủng tử ô nhiễm phiền não thì nó còn bị Mạt-na chấp là ngã. Khi nào tất cả chủng tử trở thành thanh tịnh thì nó được gọi là Bạch tịnh thức hay Đại viên cảnh trí. Nói cách khác nó trở thành Như lai tạng, là Phật hay Pháp thân .

Theo Duy Thức, tâm được gọi là Thức (Vijnana), khi nó còn ô nhiễm chấp ngã chấp pháp. Khi nào tâm hoàn toàn thanh tịnh vô ngã, thì được gọi là Trí (jnana),

 2) Mạt-na thức (hay Ý căn): Là căn cứ phát sinh ra Ý thức, cũng như mắt là Nhãn căn nơi phát sinh ra Nhãn thức, tai là Nhĩ căn nơi phát sinh Nhĩ thức.

Mạt-na được sinh ra từ những chủng tử vô minh của A-lại-da nên bản chất của nó là chấp ngã. Nó chấp A-lại-da là ngã. Tất cả những gì liên quan đến ngã như là ngã si, ngã ái, ngã kiến, ngã mạn… đều bắt nguồn từ nó. Sự chấp ngã của Mạt-na “câu sinh ngã chấp”, tức sự chấp ngã sinh ra cùng lúc với thân mạng. Sự chấp ngã này đã có trước khi sinh ra đời, vì thế Mạt-na không cần phải có năm uẩn mới chấp ngã. Nó từ A-lại-da sinh ra và đã chấp A-lại-da là ngã rồi.

3) Ý thức: Khi Ý căn tiếp xúc với pháp trần làm phát sinh ra sự nhận thức. Sự nhận thức này được gọi là Ý thức. Ý thức có 3 hình thái nhận thức:  

a) Hiện lượng: Là sự nhận thức trực tiếp vô tư chưa trải qua suy luận phân biệt.  

b) Tỷ lượng: Là sự nhận thức qua suy luận phân biệt.  

c) Phi lượng: Khi 2 sự nhận thức trên phản ảnh sai lầm về thực tại thì gọi là phi lượng. Thí dụ trong đêm tối thấy sợi dây tưởng là con rắn, khác với hai thức trước.

Ý thức có lúc bị gián đoạn không hoạt động trong 5 trường hợp sau đây: (1) Trong cõi Trời vô tưởng  (2)Trong Diệt tận định (3) Trong Vô tưởng định. (4) Ngủ mê không mộng mị (5) Ngất xỉu, bất tỉnh nhân sự. Ngoài 5 trường hợp trên Ý thức luôn luôn hoạt động ngay cả trong giấc ngủ.

  Tóm lại theo Duy Thức thì tâm là thức, là cái biết gồm 6 thức như quan niệm của Phật giáo Nguyên Thủy và thêm 2 thức mới là Mạt-na thức và A-lại-da thức.  Các nhà nghiên cứu Phật học cho rằng khái niệm A-lại-da thức là căn bản thức rất hợp lý, thức này bổ túc thêm vào quan niệm xưa nay khi người ta đề cập đến thức, đa số đều nói 6 căn và 6 trần tiếp xúc với nhau, mới sinh ra 6 thức. Thí dụ khi con mắt tức là căn thấy sắc tức là trần mới phát sinh ra nhãn thức.  Như thế, thì thức chỉ là sản phẩm của căn và trần. Chư vị này cũng giảng rằng: “Như trong Thập nhị nhân duyên, vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc. Thức ở đây chính A-lại-da, là luồng tâm thức hay nghiệp thức huân tập từ nhiều đời. Từ A-lại-da  thức mới sinh ra Danh sắc và ngũ uẩn, trong đó, bao gồm 6 giác quan”.

IV. TÂM THEO QUAN NIỆM CỦA THIỀN TÔNG

 Thiền tông chủ trương “trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật”, tức chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật. Tâm con người có rất nhiều tánh, chẳng hạn: Tánh tham, tánh sân, tánh si, tánh kiêu mạn, tánh nghi ngờ, tánh thiện, tánh ác v.v… Những loại tâm tánh này thuộc về tâm phàm phu. Tánh mà Thiền tông đề cập ở đây không phải là bản tánh bình thường của người chưa biết tu thiền như vừa mới kể, mà là Tánh Giác. Ngộ được tâm, thấy được bổn giác, trở về sống với Tánh Giác là ý nghĩa “kiến tánh” của Thiền tông. 

  1. TÁNH GIÁC (*)

Trả lời câu hỏi Tánh Giác là gì? Cố Hòa Thượng Thích Thông Triệt đã trả lời như sau: “Tánh giác có nghĩa đơn giản là tánh biết, tiếng Phạn là “buddhi” nghĩa là năng lực biết.  Tánh giác có hai nghĩa: – Nghĩa thứ nhất của  Tánh giác (buddhi) là tuệ trí bẩm sinh của con người. Nó có năng lực biết rõ ràng đối tượng mà không bị đối tượng thu hút tác động, thuộc tâm bậc thánh. – Ngược lại, nghĩa thứ hai của “buddhi” là trí năng bén nhạy.  Với trí năng, nó bị đối tượng tác động, thuộc tâm thế gian. Cả hai loại trí này trong ngôn ngữ Ấn Độ đều dùng từ “buddhi” để diễn tả. Vì thế người ta dễ lầm lẫn ý nghĩa từ “buddhi”.  Người ta chỉ có thể phân biệt được sự khác nhau giữa trạng thái có lời và không lời trong năng lực biết của từ “buddhi”. Nếu có lời là trí năng bén nhạy. Không lời là tuệ trí bẩm sinh.  Với trí của bậc thánh, “buddhi” hay “Tánh giác” trên căn bản, là năng lực biết không lời và năng lực nhận thức không lời.

Trong ngôn ngữ Thiền tông, Tánh giác là cái biết không lời, đồng bộ và tức khắc. Có thông tin hay không có thông tin, nó vẫn biết. Nó là dòng biết thường hằng, lặng lẽ, không gián đoạn, không có tâm phân biệt, không có khái niệm ngôn ngữ thành hình trong não mà chỉ có phân tích cô đọng trong nhận thức không lời. Trong nó không có phiền não, không có hình ảnh ganh đua, tranh chấp, xung đột, đấu tranh… như Ý thức và Ý căn. Không có suy luận, suy đoán hay “phải là, chỉ là, nên là” như Trí năng. Vật thế nào, nó thấy y như thế đó, tức thấy cái “đang là” của vật.  Mọi thứ thành kiến, định kiến, chủ quan không có trong nó.  Do đó, đứng trước tất cả đối tượng nó không dính mắc, không chấp trước, không lệ thuộc. Nó không theo cảnh, không bị cảnh chuyển. Khi nó có mặt, vô minh không có mặt, tự ngã không có mặt, phiền não không có mặt, tập khí hay lậu hoặc không có mặt. Trong bốn oai nghi, nó hằng tiếp thu ngoại trần, nội trần, kiến giải tất cả mà tâm vẫn không động. Trong ngôn ngữ Thiền tông gọi nó là “ông chủ”. Phật giáo phát triển gọi nó là “chân ngã”. Trong Phật giáo Nguyên Thủy, nó được xem là cái biết của người bắt đầu bước vào dòng thánh. Nó được Phật gọi là cái Vô Sanh, Duy Thức tông gọi là Bạch Tịnh Thức. Các vị thiền sư ví nó như hạt minh châu, hay tấm gương sáng, hoặc rỗng rang như hư không. (hết trích)

Tánh giác gồm ba: Tánh thấy (của mắt), tánh nghe (của tai), tánh xúc chạm (của mũi, lưỡi và thân).  Tóm lại, Tánh giác là cái thấy biết của Chân tâm.   

B. VỌNG TÂM-CHÂN TÂM

1) Vọng tâm: Tâm của người chưa biết tu tập, hằng ngày thường sống với nhiều tâm trạng khác nhau. Lúc thì buồn bực nhớ nghĩ những chuyện quá khứ, khi thì mong muốn tưởng tượng những chuyện ở tương lai. Hiện tại thì suy nghĩ lung tung hết chuyện này sang chuyện khác. Có lúc tác ý suy nghĩ những điều tốt, có lúc suy nghĩ những điều xấu có lợi cho mình mà hại người. Có khi tâm cảm thấy an lạc, hạnh phúc, có lúc lại cảm thấy bực bội, buồn khổ.  Thông thường tâm này bị trói buộc bởi những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, thuật ngữ trong nhà Phật gọi đó là kiết sử, lậu hoặc hay tập khí… Nếu không bị lục trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, lôi cuốn tác động vào tâm xúc cảm thương ghét, thù hằn… thì cũng bị ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy thúc giục đòi hỏi phục vụ cho bản ngã. Nếu được thì vui. Mất, thì buồn.Đức Phật ví tâm này như hồ nước đục, gọi là tâm phàm phu hay tâm sinh diệt. Chư Tổ Thiền tông thì gọi tâm này là Vọng Tâm.

2) Chân Tâm: Khác với Vọng tâm, Chân tâm là tâm tự biết một cách thầm lặng không lời. Cái biết của nó chân thật, đúng đắn, không bị ô nhiễm bởi lăng kính quá khứ, hiện tại, vị lai. Khi lục căn tiếp xúc lục trần, đối tượng như thế nào nó thấy biết như vậy, tức thấy biết cái “đang là” của đối tượng. Nó không phân biệt so sánh bình luận khen chê. Ý căn, Ý thức hay Trí năng tức tự ngã không có mặt trong tâm này.  Thầm nhận biết nên tâm an nhiên, tự tại trước mọi cảnh thịnh suy,  hợp tan, đẹp xấu, được mất…  Đặc tính của Chân tâm là an tịnh, trong sạch, sáng suốt. Đức Phật ví tâm này như hồ nước trong, là tâm bất sinh. Chư Tổ Thiền tông gọi tâm này là Chân tâm hay Tánh giác.

V. TÓM KẾT

Nhìn chung tâm là cái biết, là nhận thức biết, là tánh biết.  Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm nhiễm ô, chấp ngã, chấp pháp, tham lam, ích kỷ, là đầu mối sinh tử, là Vọng tâm. Khi tâm giải phóng khỏi năm triền cái: Ham muốn nhục dục, sân hận, si mê, hôn trầm, thụy miên, lo lắng bất an (trạo cử) và nghi ngờ thì tâm nhiễm ô trở thành tâm trong sạch, vô lượng, là nền tảng căn bản của giác ngộ giải thoát gọi là Chân tâm. Tóm lại tâm ô nhiễm là khổ đau, tâm thanh tịnh là Niết-bàn. Tâm mê là chúng sinh, tâm giác là Phật.

 Tâm trong đạo Phật được giảng giải rất chi tiết tùy theo các tông phái trong đạo Phật. Bài viết này chỉ nhằm đáp ứng cho các Phật tử mới bắt đầu học Phật, giúp các bạn nhận ra tâm là gì?  Lúc nào tâm bị gọi là Vọng, lúc nào tâm được gọi là Chân, hầu dễ bề tu tập, thanh lọc thân tâm, hướng tới giác ngộ giải thoát…

                        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật./.

                                                     Thích Nữ Hằng Như

                                      (Thiền thất CHÂN TÂM, 16/12/2023)

Tài liệu: 

(*) Sách: “Tìm Hiểu Và Ứng Dụng Thiền Phật Giáo” Tập 2, cuốn 1: Phần “Tánh Giác” (trang 128…); tác giả: Cố Hòa thượng Thiền Sư THÔNG TRIỆT

Ý Nghĩa Nương Thuyền Bát Nhã Là Gì ?

I. Ý NGHĨA BÁT NHÃ:

Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã. Bát nhã là thuật ngữ xuất phát từ tiếng Pãli là “Panna”, tiếng Sanskrit là “Prajna”. Các nhà Phật giáo cổ thời Trung Hoa đã dịch âm hai từ đó là “Bát-nhã” có nghĩa là trí huệ hay trí tuệ, được hiểu là trí huệ toàn giác. Để phân biệt với trí huệ thông thường, các nhà Phật học Trung Hoa thường thiết lập thêm 2 từ “trí huệ” trước hai từ “Bát nhã” gọi là “trí huệ Bát nhã”.

Theo từ gốc, đầu ngữ của “Panna” hay “Prajna” là “Pa” hay “Pra” có nghĩa là đầy đủ. Tiếp ngữ kế là “nna” (nana) hay “jna”(jnana) có nghĩa là Trí.

Như vậy “Panna” hay “Prajna” là trí huệ đầy đủ hay trí huệ tối thắng. Do vậy nên Bát Nhã được định nghĩa là trí huệ siêu vượt, đầy đủ, tối thắng, và cũng được gọi là huệ tự phát. Tùy lúc tùy thời, Bát nhã còn có nghĩa là Phật tánh, hoặc là tiềm năng giác ngộ, hay là tuệ giác tức trí tuệ đưa đến giác ngộ. (*)

II. NƯƠNG THUYỀN BÁT NHÃ

 Như vậy “nương thuyền Bát Nhã” là “nương vào tuệ giác”. Nhưng nương vào tuệ giác để làm gì? Người tu học Phật được dạy rằng nương vào tuệ giác để đến bờ giác ngộ giải thoát, nhưng gần hơn hết là để quay về với Tánh giác, sâu sắc nữa là nhận ra Phật tánh nơi chính mình.

Trí tuệ có hai loại, một loại là sự thông hiểu của ý thức qua tiến trình học hỏi thu nhập từ nơi gia đình, trường học, xã hội. Cái biết hay cái nhận thức này thuộc về kiến thức thế gian là cái biết có lời, nó có thể thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Và, một loại nhận thức không lời nhờ vào tu tập mà phát huy trí tuệ của chính mình đó là cái biết của tánh giác.

Từ khi con người được sinh ra đời là đã bắt đầu sống với cái biết thế gian. Cái biết thế gian là cái biết học hỏi từ những điều do con người ở cùng một vùng, một quốc gia chế định. Thí dụ người Việt Nam, khi nói đến màu sắc, người ta phân chia và đặt ra đây là màu trắng, kia là màu vàng, nọ là màu xanh, hay kia là xe máy, xe hơi,  xe lửa, tàu ngầm, tàu bay… Người quốc gia khác thì có tên gọi khác, thí dụ như người Mỹ, màu trắng họ gọi là white, màu vàng là yellow, màu xanh là blue chẳng hạn. Ngay cả mỗi con người sống trên đời này, ai cũng có một cái tên để gọi như cô Hai, cô Ba, anh Tư, anh Năm. Thú vật cũng được phân loại  đây là con gà, kia là con vịt, con ngỗng, con chó, con mèo, con heo, con trâu, con bò… Kia là con kiến, nọ là con sâu, con bướm… Đây là cây thông, kia là cây cam, cây bưởi, cây ổi … Mỗi sự kiện, mỗi hành động, mỗi thái độ, trạng thái, đều có từ ngữ dành cho nó. Thí dụ như: Đi học, đi làm, tranh cãi, bực bội, vui, buồn, thương, ghét, hạnh phúc, khổ đau v.v… Tóm lại tất cả mọi hiện tượng trên thế gian đều được đặt tên. Nhưng thật ra khi mới xuất hiện trên thế gian này, chúng không có tên. Cái nhà không nói chúng là cái nhà. Chiếc xe không nói chúng là chiếc xe. Em bé mới lọt khỏi lòng mẹ, không tự xưng mình là bé A hay bé B, cũng không tự phân biệt cho mình là con trai hay con gái.

Ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết, dấu hiệu, tên gọi,… là những thứ người ta đặt ra và gán lên cho hiện tượng thế gian, tuy nó chỉ là giả danh nhưng được mọi người chấp nhận và xử dụng, lâu dần thành tập tục, tập quán, văn hóa… của một quốc gia.  Kiến thức thế gian rất cần thiết, vì nhờ có nó, mà đời sống con người trong cộng đồng xã hội giữ được trật tự, nền văn minh kỷ thuật ngày một phát triển giúp cho đời sống của con người vượt qua những khó khăn được dễ dàng hơn. Nhưng ở một cái nhìn khác, người khôn ngoan hay khù khờ sống trong cái biết thế gian này, người nào cũng mong muốn được thỏa mãn sự đòi hỏi của ngũ dục, nên tham sân cũng từ đó mà xuất hiện. Tham, sân là nguồn gốc lôi cuốn con người vào những lo âu phiền não. Khi bị phiền não khống chế thì ngay lúc đó mình không còn là mình nữa, mình đã đánh mất chính mình rồi!

Tuệ giác là tánh thấy biết sáng suốt, tự nhiên và chân thật. Nó biết đối tượng qua giác quan khi mắt thấy, tai nghe, thân đụng chạm. Nếu không có đối tượng nó cũng biết, biết là không có đối tượng trước giác quan. Đặc biệt cái biết này chỉ ghi nhận mà không để vọng thức phân biệt, so sánh hay tình cảm thương ghét, tức tham-sân-ngã xen vào…  Nhờ vậy mà tuệ giác có thể giúp chúng ta thoát khỏi sự cám dỗ của ngũ dục. Tánh biết thầm lặng “đang là” này, ai cũng có, nhưng vì tướng biết lăng xăng “phải là” của ý thức che lấp, nên nó nằm yên trong tâm thức. Muốn khơi dậy tánh biết, người ta phải tu tập thiền định. Nhờ thiền định, tâm loại bỏ những vọng tưởng, tham, sân, si là những thứ gây trở ngại cho sự phát huy của trí tuệ tâm linh.  

III. THIỀN LÀ GÌ?

Giáo lý nhà Phật dạy có nhiều cách tu tập giúp cho tâm hành giả được yên lặng gọi là “định”. Khi tâm hành giả không bị cảnh trần lôi cuốn thì ngay khi đó hành giả đang sống thật với chính mình.

Trong bài kinh Tứ Đế, Đức Phật dạy cho năm anh em Kiều Trần Như, ngoài việc nhận ra sự thật về bốn đế nơi chính bản thân của mỗi người như:  Sự bất toại nguyện của đời sống con người là Khổ đế. Nguyên nhân gây ra khổ gọi là Tập đế. Dẹp được nguyên nhân gây ra đau khổ, đạt được trạng thái an lạc hạnh phúc gọi là Diệt đế. Và đế quan trọng, giúp hành giả đạt được Niết-bàn, đó là Đạo đế. Trong Đạo đế có những chi ngành đề cập đến việc tu thiền định.

Đạo đế là pháp tu tập gồm tám yếu tố: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định, còn gọi là Bát chánh đạo. Đường lối tu tập này tương ưng với ba môn học Giới, Định, Tuệ. Chánh kiến, Chánh tư duy, thuộc về Huệ hay Tuệ, tức kiến thức hiểu biết đúng sai, thiện ác. Nhờ có học chúng ta mới hiểu những điều cao quý mà Đức Phật đã dạy còn ghi lại trong Tam tạng giáo điển. Ngày xưa, người học Phật lắng tai nghe Đức Phật thuyết pháp, cố tâm ghi nhớ, lặp đi lặp lại cho thuộc, nên gọi là Văn tuệ. Văn tuệ là nghe.

Ngày nay, nguồn tư liệu về Phật học nhiều hơn xưa. Các công nghệ thông tin qua internet cũng như những luận đề Phật học do nhiều nhà nghiên cứu viết và in thành sách được phát hành khắp nơi trên thế giới, giúp người muốn học Phật có thể nghe, nhìn, đọc chứ không phải chỉ học qua phương pháp lắng nghe từ một vị Thầy mà thôi! Học từ nhiều vị Thầy cao minh, cho nên kiến thức của người học có thể  tích lũy và mở mang nhiều hơn. Có điều cần lưu ý, vì hiện nay tài liệu Phật pháp phổ biến tràn ngập từ nhiều người không biết đâu là thật, đâu là giả, cho nên người học Phật cần phải có trí năng sáng suốt, đừng để bị rơi vào mê hồn trận bởi tà kiến.

Yếu tố thứ hai trong Bát chánh đạo là Chánh tư duy. Chánh tư duy tương ưng với Tư tuệ, nghĩa là dựa trên kiến thức có được qua Chánh kiến hay Văn tuệ, người học Phật cần phân tích, tổng hợp nguồn thông tin ấy, rồi suy tư, phân giải… cho đến khi bản thân mình thực sự thông hiểu rõ ràng những gì mình đã nghe đã học. Đó là Tư tuệ.

Nhưng kết quả của Chánh kiến, Chánh tư duy hay Văn tuệ, Tư tuệ không giúp người ta thoát khổ được. Nó chỉ giúp cho người học mở mang kiến thức thế gian hay kiến thức Phật học. Nếu không khéo thì kết quả này chỉ tô bồi thêm cho bản ngã ngày một kiêu ngạo thêm! Vì thế bước tiếp theo cần phải ứng dụng lời Phật dạy để trải nghiệm, chứng ngộ chân lý trên thân tâm.

Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Đức Phật dạy ngoài việc học thuộc lòng kinh, đọc tụng lưu loát kinh, hay thuyết pháp cho mọi người nghe những gì mình đã học thuộc lòng, thì đó chưa phải là tu hành theo đúng pháp. Mà vị Tỷ-kheo tu đúng pháp ngoài việc nhuần nhuyễn giáo lý, tụng kinh, thuyết trình… còn cần phải nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ, tức thực hành thiền định giúp nội tâm ngừng hẵn mọi tư duy suy nghĩ, từ đó ánh sáng tuệ trí mới có cơ hội phát huy. Được như thế, thì vị đó mới thực sự sống theo pháp. (**)

Các chi kế trong Bát chánh đạo là Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Ba chi này thuộc về Giới học, có công năng giữ cho hành vi của thân khẩu được thanh tịnh không tạo nghiệp xấu.

 Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định là phần tu tâm còn gọi là tu Thiền. Vậy Thiền là gì? Thiền hay Thiền-na là tiếng phiên âm của từ gốc Pãli là “dhyãna”. Khi Phật giáo truyền tới Trung quốc, người Hoa không phát âm được chữ “dhyãna” mà đọc trại thành “Chána”. Sang đến Nhật Bản thì từ này được  người Nhật phát âm thành “zen”. Người Việt Nam đọc theo âm Hán Việt là “Thiền” hoặc “Thiền-Na”. Thiền-na được giải thích nghĩa là “tĩnh lự”. Tĩnh là yên lặng, trái ngược với dao động, còn lự là tư duy, suy nghĩ. Thiền-na nghĩa là tâm dừng suy nghĩ, dừng hoạt động của tư duy.

Thiền là phương pháp tu tập rèn luyện tâm ý từ vọng động chuyển sang vắng lặng, bằng cách hướng tâm vào một đề mục duy nhất, với một nội dung duy nhất, mục đích không để niệm khác xen vào. Tu Thiền tiến triển qua hai giai đoạn: Thiền Chỉ và Thiền định.

Chỉ” nghĩa là dừng lại các hoạt động của tâm ý bằng phương pháp hướng tâm, đặt tâm vào một đối tượng, loại tất cả những chướng ngại làm tâm dao động  gọi chung là vọng tưởng. Khi tâm và đối tượng thể nhập thành một, thì đạt được trạng thái yên lặng gọi là “nhất tâm”. Khi nhất tâm được phát triển vững chắc thì có Định.  Người ta nói thiền Chỉ đưa đến thiền Định là vậy!

Khi tâm ở trong trạng thái vắng lặng, an tịnh, thì tuệ giác vốn có  sẵn trong mỗi chúng ta sẽ phát huy. Đức Phật đã từng dạy tâm con người vốn sáng như mặt trăng, nhưng bị mây che nên trăng bị lu mờ. Chúng ta có thể hiểu Đức Phật ví mặt trăng như là cái tâm sáng suốt, còn mây che ám mặt trăng xem như là  cái bản ngã tham, sân, si,  mạn, nghi, tà kiến ngăn che khiến ánh sáng trí huệ không hiển lộ được. Muốn cho mặt trăng hay tuệ giác phát huy trọn vẹn tánh sáng của nó thì phải dẹp cái mớ ô nhiễm, vọng tâm đi. Tuệ giác ở đây chỉ cho cái chức năng sáng suốt, chiếu sáng, soi sáng như mặt trăng.  

Người tu tập có Chánh niệm vững chắc luôn “tỉnh táo, sáng suốt” nhận rõ những gì đang xảy ra ngay trong thực tại, thì không bị tham sân khởi lên, hoặc nếu chúng khởi lên, lập tức nhận ra chúng ngay tức khắc, và không để chúng lôi cuốn mình vào trò chơi tạo nghiệp. Nói cách khác, mình không bị đồng hóa theo bản ngã tham sân si.

Bản ngã là gì? Thực ra, bản ngã chỉ là sản phẩm ảo của cái hiểu biết phàm phu không đúng về hợp thể năm uẩn của thân tâm, cho năm uẩn này chính là mình (ngã), của mình (ngã sở). Sống ở đời, hầu như người nào cũng bị ảo ngã, tham sân ảnh hưởng, khiến con người ta hôm nay thủ vai trò này, ngay mai lại đóng vai trò khác.  Đó là vì chúng ta đang sống theo cái vọng tâm, vọng nghiệp, vọng chấp… nay cười mai khóc… nên sầu bi, khổ, ưu, não chiếm ngự… biến chúng ta thành con người vô minh, không sao thoát khỏi bánh xe luân hồi sanh tử!

III. KẾT LUẬN

Trở lại chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì?” chúng ta hiểu rằng “Nương thuyền Bát nhã” chính là “Nương vào thuyền Tuệ giác”. Nhưng thuyền Tuệ giác sẽ đưa chúng ta đi đâu, về đâu? Người tu theo đạo Phật hiểu rằng: Nương thuyền Bát Nhã để trở về với bổn tâm, bổn tánh, vốn tự nó thanh tịnh sáng suốt. Đó là tánh biết, là năng lực biết của mình.

Năng lực biết này có công năng soi sáng thực tại, như là tấm gương phản ảnh những gì trước nó. Sự vật như thế nào nó phản ảnh lại như thế. Nó chỉ soi sáng chứ không can thiệp, không chào đón cũng không xua đuỗi, cứ để yên cho thực tại hiện rõ bản chất của chúng, tự sinh tự diệt… từ đó nhận thức đúng đắn bản chất hiện tượng đời sống là Vô thường, Khổ, Vô ngã… nên buông bỏ không chấp trước bất cứ những thịnh suy, vinh nhục, thành bại, hạnh phúc hay đau khổ xảy ra trong cuộc đời.

Khi biết mà không dính với tất cả những pháp thế gian hạnh phúc hay phiền lụy, thì ngay khi đó tâm trở về trạng thái tĩnh lặng, cái biết tự tánh sẽ hiển lộ, đây là cái biết của trực giác.  Cái biết trực giác này sẽ phát huy đến vô lượng, đưa người thực hành vượt qua bể khổ đến bờ giác ngộ giải thoát…

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

An cư  Kiết Xuân 03/02/2024

(Thiền Viện CHÂN NHƯ, Navasota, TX)

Tài liệu:

(*)Theo giáo trình giảng dạy lớp Thiền Căn Bản của HT. Thích Thông Triệt.

(**) Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya) Chương V: Năm pháp- (73) Sống Theo Pháp. Bản dịch Việt ngữ của HT. Thích Minh Châu.

Xuân Trong Chốn Thiền Môn

Mỗi cuối năm khi hoa mai, hoa đào bắt đầu nở, khi ngoài trời vài cơn gió hiu hiu lạnh nhẹ nhàng lướt qua trên cành cây ngọn trúc, thì chúng ta biết là mùa Xuân đang về. Mùa Xuân chưa hẳn là mùa đẹp nhất trong năm, nhưng mùa Xuân là mùa mà cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, là mùa của các loài hoa có tên hay không tên đua nhau rộ nở khoe sắc, mùa mà theo truyền thống phương Đông mọi người dù nghèo hay giàu, dù đang thảnh thơi nhàn hạ hay đang tất bật làm ăn cực khổ ở nơi xa, cũng đều mong muốn quay về sum họp với gia đình: cha mẹ, vợ chồng, con cái để cùng nhau đón mừng mùa Xuân mới.

Nói đến mùa Xuân, chúng ta nghĩ ngay đến sự vui vẻ, ấp áp, mà mọi người trên thế gian đều mong muốn được hưởng. Người thế gian chờ đợi mùa Xuân như thế nào, thì trong nhà Phật mọi người cũng mong có mùa Xuân như thế, nhưng ý nghĩa về mùa Xuân trong đạo thì thâm trầm vi diệu hơn ngoài đời.

Mùa Xuân trong đạo có được hay không là do công phu tu tập và rèn luyện của mỗi người. Trong thiền môn, mỗi tu sĩ có sẵn một nụ hoa Xuân. Tuy là hoa Xuân nhưng nó không hương không sắc và nó cũng không tự nở theo mùa như hoa thế gian. Nó chỉ nở khi tâm người này ở vào trạng thái hoàn toàn vô ngôn tịch tĩnh. Tuy thân tâm ở trong trạng thái lặng lẽ sâu kín và bất động đó, nhưng lại tràn ngập sự an lạc. Và khi đến một thời điểm bất động tột cùng sâu thẳm, do một xúc tác mãnh liệt nào đó va chạm vào nhau thúc đẩy đóa hoa Trí Tuệ bừng nở trong tâm. Bấy giờ hoa Trí tuệ tự nó tỏa hương thơm từ bi, rải sự an lạc đến cho mọi người xung quanh. Khi ánh sáng Trí tuệ bừng sáng trong tâm người tu, thì mùa Xuân Bất Tận mới thực sự tràn ngập trong chốn thiền môn. Và đương nhiên mùa Xuân này mãi mãi ngự trị không bao giờ biến mất trong tâm người giác ngộ.

Xuân Vô thường đến trong đất trời một thời gian hữu hạn ngắn ngủi, nó mang niềm vui phơi phới đến cho mọi người rồi nhanh chóng ra đi. Kế đến mùa Hạ sẽ mang nắng ấm tới, rồi mùa Thu lá vàng héo úa rơi rụng và sau cùng là mùa Đông khí trời giá lạnh cây cối trơ cành.

Khi mùa Đông buồn bả, u sầu vừa trôi qua, thì làn gió Xuân bắt đầu trở mình mang sức sống về với vạn vật. Thế gian có bốn mùa, cứ thế mà xoay dần, mà luân chuyển. Mùa Xuân cũng như giống như con người con vật trải qua tứ thời sinh, lão, bệnh, tử, rồi bị nghiệp lực thôi thúc tái sanh vào một đời sống khác, tiếp tục chu kỳ sinh, lão, bệnh, tử… Cứ thế mà luân hồi trong nhiều cõi, chịu cảnh trầm luân vui buồn khổ não hết đời này sang đời khác.

Xuân đến rồi đi, Xuân đi rồi lại quay về, còn tâm trạng người đón Xuân thì không lúc nào giống lúc nào, cho nên Xuân Quá Khứ không giống Xuân Hiện Tại, lại càng không chắc sẽ giống với Xuân Vị Lai. Xuân luôn thay đổi như thế nên trong đạo gọi đó là Xuân Vô Thường, Xuân Sinh Diệt, Xuân Nhân Quả hay Xuân Luân Hồi…

Con người bình thường sống trong thế gian thì hưởng Mùa Xuân Thế Gian. Còn Xuân trong đạo là Xuân Xuất Thế Gian. Thế nào là Xuân Xuất Thế Gian? Đó là mùa Xuân không sinh không diệt. Chất Xuân vượt ra ngoài cảm xúc của con người, nó vượt ra khỏi thời gian, không gian. Nó không bị ảnh hưởng bởi quy luật vô thường nên nó thường hằng bất biến. Người sống trong Mùa Xuân Xuất Thế Gian này tâm trạng luôn vô tư, bình thản, an vui, tự tại trong mỗi sát-na. Trạng thái đó tương tục mãi từ sát-na này đến sát-na khác, và cứ thế mà hưởng mùa Xuân bất tận vĩnh cửu.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

Từ TV. CHÂN NHƯ – Cô mến chúc tất cả Thiền sinh Tánh Không, một năm mới Giáp Thìn vô lượng cát tường…

Tìm Hiểu Thuyết “Ngũ Thừa trong Phật Giáo”

I. DẪN NHẬP

Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”. Tại sao Đức Phật lại muốn khai ngộ Phật tri kiến nơi chúng sanh? Đó là vì nếu chúng sanh khai mở chứng ngộ được Phật tánh, thì họ sẽ được tự do,  thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.

Trên đường tu giải thoát giác ngộ, căn cơ tâm tính của mỗi người, mỗi khác, không ai giống ai, nên pháp của Phật khi thấp, khi cao, khi xa, khi gần. Dù Đức Phật dạy Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện, hay dạy Tứ Đế, Vô thường, Vô ngã, Thập nhị nhân duyên hoặc dạy về Pháp tánh, Pháp tướng, Thật tướng Vô tướng hay Chân Không v. v… thì mục tiêu của Ngài cũng nhằm chỉ bày cho chúng sanh phương thức tu tập chứng ngộ pháp giới tánh. Giáo pháp của Phật tuy nhiều, nhưng chung quy được phân loại thành năm cấp bậc, thuật ngữ gọi là “Ngũ thừa Phật giáo”.  Là Phật tử chúng ta cần tìm hiểu các phương thức tu tập cũng như công dụng của mỗi thừa như thế nào, để tự chọn pháp tu thích hợp với căn cơ của mình. Vì thế, chủ đề bài viết chia sẻ hôm nay là “Tìm Hiểu Thuyết Ngũ thừa trong Phật Giáo

II. TÌM HIỂU “NGŨ THỪA PHẬT GIÁO”

Thừa: Tiếng Phạn là “yàna” có nghĩa là cỗ xe giúp người ta di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác theo ý muốn.  Đức Phật ví đạo pháp của Ngài như các cỗ xe. Những ai đã chọn leo lên cỗ xe đạo pháp của Ngài, nếu là xe nhỏ, người đó sẽ được đưa đến cảnh giới an vui, nếu là xe lớn sẽ đưa người ấy đi xa hơn thoát khỏi luân hồi sanh tử, và cao quý hơn hết là đạt tới quả Vô thượng chánh giác. Đương nhiên muốn đến chỗ cứu cánh cuối cùng không phải dễ, nhưng tin vào lời tuyên bố của Đức Phật : “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành” thì chúng ta không ngại ngùng gì, mà không cùng nhau bước lên chuyến xe thích hợp với căn cơ của mình để tu tập.

 Về giáo pháp của Phật, chúng ta thấy pháp tu Ngài dạy, bao gồm cả thế gian và xuất thế gian, tùy theo căn cơ lợi, độn, và trình độ cao thấp, Đức Phật đưa ra năm cấp bậc gọi là năm thừa. Năm thừa hay năm phương pháp tu tập này khác nhau, nên đưa đến kết quả khác nhau. Năm thừa được xếp theo thứ tự: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa và Bồ-Tát thừa. Trước hết chúng ta tìm hiểu cỗ xe đầu tiên là Nhân thừa.

                                            1. NHÂN THỪA

 Người tu Nhân thừalà người đã thọ và giữ gìn “Tam quy, ngũ giới”. Tam quy là nương tựa vào ba ngôi Tam bảo: Phật-Pháp-Tăng. Phật là đấng giác ngộ vô thượng chánh đẳng được tôn xưng là Phật bảo. Pháp là lời dạy của Đức Phật, cụ thể là Tam tạng kinh điển (Kinh-Luật-Luận) gọi là Pháp bảo. Tăng là những vị đã ly gia cắt ái,  sống chung thành đoàn thể thanh tịnh, đang tu tập hành trì đúng chánh pháp Như Lai và tiếp sức truyền bá đạo Phật giúp Phật tử hướng đến giác ngộ giải thoát, gọi là Tăng bảo.

Ngũ giới là năm giới cấm do Phật chế ra, được xem như hàng rào ngăn cản không cho hành giả vi phạm những điều tội lỗi. Năm giới cấm đó là: “1.1) Không sát sanh. 1.2) Không tham lam trộm cắp. 1.3) Không tà dâm. 1.4) Không nói dối. 1.5) Không uống rượu.”

Nhân thừa là con đường tu hành cho những người sơ cơ nên có phần dễ thực hiện.  Nhờ không vi phạm năm giới cấm nên ngay trong đời sống hiện tại, hành giả xứng đáng được xem là người có tư cách, có đạo đức. Khi thân hoại mạng chung, thần thức không bị rơi vào ba đường dữ: “địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh”, mà được trở lại cõi Người, nên có tên là “Nhân thừa” .

2. THIÊN THỪA

Tu “Thiên thừa” là tu “Thập thiện” tức làm mười điều lành, tránh xa mười điều ác. Những ai, sống ở đời này tạo nhiều nhân lành, đời sau sẽ hưởng nhiều quả tốt, chẳng hạn như được sanh lên cõi Trời hưởng phước, sống an lạc sung sướng. Theo đạo Phật thì có nhiều cảnh Trời. Cảnh Trời thấp nhất thuộc về Dục Giới có 6 cảnh : Tứ Vương thiên, Đao-Lợi thiên, còn gọi là Tam-Thập-Tam thiên, Dạ-Ma thiên, Đâu-Suất thiên, Hóa-Lạc thiên, Tha-Hóa-Tự-Tại thiên. Cao hơn cõi Trời Dục giới có 18 cảnh Trời thuộc về Sắc giới. Chúng sanh  ở cõi này có sắc thân, nhưng không có ái dục nam nữ. Phía trên cõi Trời Sắc giới là cõi Trời Vô Sắc giới có 4 cảnh Trời.

Chư thiên dù ngụ ở cảnh Trời nào kể trên đều có tuổi thọ rất cao. Cao nhất trong ba cõi là cảnh Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng. Chư thiên ở nơi đây, tuổi thọ đến 84 ngàn đại kiếp. Tuy tất cả chư thiên có đời sống trường thọ, nhưng vì chưa hoàn toàn giác ngộ thâm sâu pháp Phật, nên một khi phước Trời đã hết, vẫn phải bị đọa luân hồi trong ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới để trả nghiệp.

            Bằng nhục nhãn của người phàm phu, chúng ta chỉ có thể trông thấy được cảnh Người và cảnh Súc sinh, còn những cảnh khác như ngạ quỷ, địa ngục hay 28 cảnh Trời mô tả trong Kinh thì không thấy được. Nhưng không thấy không hẳn là không có! Dù không biết chắc chắn rằng các cảnh Trời đó thực sự ở đâu ngoài trái đất này? Nhưng ngày nay, các nhà Thiên Văn Học đã tìm ra được trong Thái Dương Hệ có trái đất (nơi con người ở) và nhiều hành tinh khác đang xoay quanh mặt trời, còn có nhiều Thái Dương Hệ khác trong vũ trụ bao la nữa. Không biết các hành tinh xa xôi đó có phải là những tầng Trời mà Đức Phật đề cập tới và được ghi lại trong Kinh hay không?

Nhưng dù thế nào thì con người sống ở thế giới Ta-Bà này không ai là không khổ, nên việc vâng lời Phật dạy tu “Thập thiện” để đời sống hiện tại được an lạc và khi qua đời được sanh về cõi Trời Dục giới cũng là điều tốt đẹp. Mười điều Phật dạy trong kinh Thập Thiện được ghi lại như sau:

2-1: Trọn đời không giết hại tất cả chúng sanh, ngược lại tu pháp phóng sanh, cứu người, cứu vật.  

2-2: Trọn đời không trộm cắp tài vật của người, mà nên giúp đỡ bố thí người nghèo khổ trong khả năng của mình.

2-3: Trọn đời không dâm ô, tà hạnh, trái lại cần phải thân tâm trong sạch.   

2-4: Trọn đời không vọng ngữ, không nói dối, mà nói lời chân thật.

2-5:  Trọn đời không nói hai lưỡi, đâm thọc mà nói đúng đắn.

2-6: Trọn đời không nói lời hung dữ, sỉ nhục người khác mà phải dùng lời nhẹ nhàng ái ngữ.

2-7: Trọn đời không nói lời thêu dệt, không ích lợi, mà nói lời đúng đắn hữu ích.

2-8: Trọn đời không tham trước tình dục, trần cảnh, mà nuôi lớn tâm thanh tịnh phạm hạnh và tùy hỷ buông xả.

2-9: Trọn đời không sân hận, phẫn nộ, oán hận người, mà luôn hiền từ nhẫn nại.

2-10: Trọn đời không si mê tà kiến, tức không bảo thủ, chấp trước, không mê tín dị đoan, không đoạn kiến, thường kiến mà luôn mà sáng suốt, tu tập chánh kiến.

Kinh ghi, muốn được lên các cõi Trời cao hơn như Sắc giới hay  Vô Sắc giới, để được an lạc hơn, và có tuổi thọ cao hơn cần phải tu thêm Thiền Định.

                                                       3) THANH VĂN THỪA

Tu “Nhân thừa” hay “Thiên thừa” giúp hành giả trở lại làm người ở thế giới này, hoặc làm tiên ở cõi Trời hưởng phước. Nhưng khi hết phước, tùy theo nghiệp tốt xấu đã tạo từ nhiều đời trước, phải chịu luân hồi trong 6 cõi: Trời, Người, A-tu-la, Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục. Cho nên, hành giả cần tu theo pháp “Thanh Văn thừa” để thoát luân hồi sinh tử.

Quả vị của “Thanh Văn thừa” là “Niết Bàn”. Các vị Thanh Văn, sau nhiều năm tu luyện, lần lượt chứng ngộ bốn bậc, từ thấp lên cao: Tu-đà-hoàn (Dự lưu),  Tư-đà-hàm (Nhứt lai), A-na-hàm (Bất lai). Cao nhất là bậc A-la-hán (Bất sanh) nghĩa là không còn sanh tử trong 3 cõi, mà thể nhập vào Vô-dư-y Niết-bàn.

Tu “Thanh Văn thừa”,  hành giả phải học giáo lý và hành trì theo  pháp “Tứ Diệu Đế”. Tứ Diệu Đế là bốn sự thật rõ ràng  hiển nhiên gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.

1) Sự thật về Khổ đế:  Con người sanh ra đời không ai là không khổ. Các nỗi khổ về thân là : “sanh, già, bệnh, chết”. Khổ vì tình cảm không được toại ý  như xa cách người thương yêu, hay phải sống gần với người mình ghét bỏ, hoặc khổ vì ước muốn không được toại nguyện. Ngoài ra, còn có cái khổ chấp thân ngũ uẩn (ngũ ấm) là thật, nên khi các uẩn không hài hòa, không quân bình, quá thịnh hay quá suy khiến con người ta phải chịu nhiều khốn khổ.

2) Sự thật về Tập đế:  Những quả khổ trong hiện tại, do  nhiều nguyên nhân sâu xa trong quá khứ, chứ không phải tự dưng mà có. Những nguyên nhân gây khổ đau gọi chung là “Kiết sử”.  Kiết là cột chặt. Sử là sai khiến. Những thứ cột chặt sai khiến chúng sanh phải chịu luân hồi sanh tử, gồm 5 độn sử và 5 lợi sử.

Năm độn sử gồm:  Tham;  Sân;  Si;  Mạn; Nghi. Rất khó diệt trừ, phải tu Chỉ, tu Quán chứng ngộ trên thân và tâm mới dẹp được những lậu hoặc này.

Năm lợi sử gồm: (1) Thân kiến là chấp thân ngũ uẩn có thật, không hiểu lý Vô ngã;  (2) Biên kiến  là nghiêng hẳn về một trong hai cực đoan: Thường kiến hoặc Đoạn kiến, không rõ lý Trung đạo, lý Duyên Sanh, tánh Huyễn v. v… ; (3) Tà kiến là chấp những điều không đúng với chân lý; (4) Kiến thủ là tự cho sự kiến giải của mình là đúng, nên bảo thủ, dừng lại một chỗ, không tiến được trên con đường tu. (5) Giới cấm thủ là bám víu vào những điều răn cấm không phù hợp với chân lý, trái ngược với trí tuệ, từ bi, như mê tín dị đoan chẳng hạn.

Năm món sau gọi là “lợi sử” nghĩa là những món phiền não thuộc về nhận thức. Tu học theo Chánh tri kiến, Chánh tư duy thì có thể chuyển đổi nhận thức.

  3) Sự thật về Diệt đế: Diệt nghĩa là tiêu diệt. Diệt đế là chân lý nói về trạng thái thanh tịnh tự tại giải thoát, sau khi diệt sạch mười kiết sử nêu trên. Trạng thái này gọi là Niết-bàn (Nirvana).

“Niết (Nir)” nghĩa là rơi rụng, thoát khỏi, không còn nữa; “Bàn (Vana)” nghĩa là nổi lên, khởi lên, lăng xăng, lộn xộn. “Niết Bàn” là thái độ sống xa lìa những lăng xăng, dao động, phiền não, an trú trong trạng thái vắng lặng thường tịnh. Khi tập đế hoàn toàn bị tiêu diệt, thì trí huệ phát sinh, chủng tử “sinh diệt” chấm dứt, Diệt đế tức Niết Bàn có mặt.

4) Sự thật về Đạo đế: Muốn tận diệt nguyên nhân gây khổ, hành giả tu tập Bát Chánh Đạo. Đạo có nghĩa là phương pháp, là con đường tu tập. Bát chánh đạo gồm tám phương thức tu tập là:  4. 1: Chánh Kiến:  Thấy biết về thân, tâm, cảnh trần một cách đúng như thật, phù hợp theo luật nhân quả, lý nhân duyên. 4.2. Chánh tư duy: Suy nghĩ và quán chiếu thuận hợp theo chân lý. 4.3. Chánh ngữ: Nói năng phù hợp với chân lý. 4.4: Chánh nghiệp: Ba nghiệp thân, khẩu, ý theo chân lý. 4.5. Chánh mạng: Sinh mạng được bảo trì và phát triển thuận hợp theo chân lý. 4.6. Chánh tinh tấn: Cố gắng, tiến hóa theo chân lý. 4.7. Chánh niệm: Tâm thức sáng tỏ, biết rõ về tâm và cảnh trong từng phút giây đời sống, bây giờ và ở đây. 4.8. Chánh định: Tâm thức yên lặng, không còn dao động theo cảnh duyên bên ngoài (tâm như, cảnh như), dần dà ứng hợp với cảnh giới Niết Bàn.”

Đạo đế gồm 37 phẩm trợ đạo như: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo. Mỗi pháp tu, nếu ứng dụng triệt để cũng có thể tiêu diệt được nguyên nhân gây khổ, không nhất thiết phải tu đủ 37 phẩm.

 Tu tập “Thanh Văn thừa”, các vị Thanh Văn thấu hiểu về “lý vô thường”. Tất cả mọi hiện tượng trên thế gian này từ con người, sự vật, cây cỏ, sông núi…  và ngay cả vũ trụ đều bị luật vô thường chi phối. Con người có bốn tướng vô thường là: “sanh, già, bệnh, chết”. Bốn tướng vô thường nơi sự vật là :“sanh, trụ, dị, diệt”. Tóm lại các  pháp có hình tướng đều vô thường, vô ngã.

4. DUYÊN-GIÁC THỪA

 Tu “Duyên-Giác thừa” là hành giả  tu tập theo pháp “Thập nhị nhân duyên”. Thập nhị nhân duyên là 12 mắc xích dính liền nhau, là vòng luân hồi sinh tử của con người. Hành giả quán 12 nhân duyên theo hai chiều xuôi (lưu chuyển) và  ngược (hoàn diệt), cho đến khi thuần thục thì giác ngộ giải thoát, thành “Bích Chi Phật”.

Theo “Lý Nhân Duyên” thì tất cả hiện tượng thế gian đều không thực chất tánh, do nhiều duyên hợp lại mà thành. Thí dụ: Cái bàn không có tự thể vì không tự nhiên mà có. Do người thợ mộc làm việc cưa cắt bào gọt gỗ thành nhiều hình thể như mặt bàn, chân bàn, còn cần phải có đinh, có ốc xoắn, có búa, có cưa v.v…  mới đóng thành cái bàn. Con người cũng vậy,  không tự dưng con người hiện diện trên thế gian này, mà phải do tinh cha, huyết mẹ, do ăn uống, hít thở không khí mới thành con người.

 Mười hai nhân duyên khởi đầu là: “Vô minh duyên nên Hành; Hành duyên Thức; Thức duyên Danh Sắc; Danh Sắc duyên thành Lục nhập; Lục nhập duyên  Xúc; Xúc duyên Thọ; Thọ duyên Ái; Ái duyên Thủ; Thủ duyên Hữu; Hữu duyên Sanh; Sanh duyên Lão Tử.”

a) Quán Nhân Duyên theo chiều lưu chuyển (xuôi):

Trong 12 Nhân duyên không có duyên nào độc lập, mà nó dính liền với nhau như sợi dây xích, mắc này dính liền với mắc kia. Mắc đầu tiên gọi là Vô minh. Tại sao gọi là Vô minh? Người Vô minh là người bị tham sân si che mờ lý trí, không hiểu chân lý Phật dạy.

Do Vô minh khiến hành vi và nhận thức không đúng với chân lý Phật dạy, thường tạo nghiệp qua thân, khẩu, ý gọi là Hành. Hành chính là nghiệp lực thúc đẩy thần thức đi thọ sanh gọi là Tử Thức. Thức dựa vào sự phối hợp của tinh cha, huyết mẹ tạo thành Danh Sắc. Danh là thức, Sắc là tinh huyết cha mẹ hợp thành bào thai. Thai bào được nuôi dưỡng trong bụng mẹ, theo thời gian phát triển đủ 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý gọi là Lục nhập. Khi ra khỏi lòng mẹ, 6 căn tiếp xúc với 6 trần gọi là Xúc. Do sự tiếp xúc nên có cảm Thọ khổ, vui, hoặc không khổ không vui. Bởi cảm Thọ nên sanh yêu thích là Ái (dục ái, hữu ái, phi hữu ái). Từ yêu thích khởi tâm chiếm giữ là Thủ. Do bảo thủ, nên mong muốn có mặt ở đời này, cũng như đời sau gọi là Hữu. Khao khát có mặt ở đời là nguyên nhân Sanh đời sau. Đã có sanh là phải già chết là Lão Tử.

Trong 12 Nhân duyên liên hệ quá khứ là Vô minh, Hành. Hiện tại là Thức, Danh Sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu.  Vị lai là Sanh, Lão Tử.  Vòng luân hồi cứ thế xoay mãi không có lối thoát. Đây là quán 12 Nhân duyên theo chiều lưu chuyển.

b) Quán Nhân Duyên theo chiều hoán diệt (nghịch):

Hành giả học hỏi pháp Phật, thấu hiểu Lý Nhân Duyên, biết rằng vạn pháp không thực chất tính nên nó “Vô thường, Vô ngã”. Hiểu được như thế thì phá được mắc Vô minh.

“Vô minh diệt nên Hành diệt; Hành diệt nên Thức diệt; Thức diệt nên Danh Sắc diệt; Danh Sắc diệt nên Lục nhập diệt; Lục nhập diệt nên Xúc diệt; Xúc diệt nên Thọ diệt; Thọ diệt nên Ái diệt; Ái diệt nên Thủ diệt; Thủ diệt nên Hữu diệt; Hữu diệt nên Sanh diệt; Sanh diệt nên Lão tử diệt.”

Như vậy, chỉ cần một mắc xích tan vỡ thì tất cả đều tan vỡ. Vòng luân hồi sinh tử cũng bị tan rã.

Trên đây là phương thức quán “thập nhị nhân duyên”, Đức Phật dạy cho các vị Thanh Văn. Ngoài ra, còn có các vị đại căn đại trí, sanh ra đời không gặp Phật, không nghe được pháp Phật, nhưng nhờ có trí tuệ sáng suốt, tự mình quan sát thấy được cảnh vô thường biến đổi của vạn pháp, mà giác ngộ được nguyên nhân sanh tử luân hồi, rồi đắc đạo gọi là “Độc giác Phật”.

Tóm lại, người tu theo “Duyên Giác Thừa” thấu hiểu được “Lý Nhân Duyên”, đạt được “trí Vô thường, Vô ngã” nên chứng quả Duyên-Giác, còn gọi là Bích-Chi Phật hay Độc-Giác Phật chấm dứt luân hồi.

5. BỒ-TÁT THỪA

Các vị Duyên giác chứng ngộ được “Lý Duyên Khởi, Pháp Duyên Sanh” thấurõ cái gì do duyên kết hợp mà thành  thì  tự tánh của nó là không, thuật ngữ gọi là  “tánh không”.

Như thí dụ ở trên:  Cái bàn do nhiều yếu tố hợp lại, khi các duyên chưa hợp thì chưa có cái bàn, mà chỉ có các bộ phận rời rạc như mặt bàn, chân bàn v. v… khi ráp lại tạm đặt tên là cái bàn. Vì cái bàn không thực chất tánh, nên gọi là tánh không, là huyễn hóa không thật.

 Con người và cảnh vật cũng như thế, cả thảy đều như huyễn vì không thật chất tánh, không tự nhiên mà có, nên con người và cảnh vật thực tánh là không, là vô ngã.

Tu tập tiến lên một bước nữa là “Bồ-Tát thừa”. Các vị ngồi trên cỗ xe Bồ-Tát tu theo “Lục độ”, còn gọi là “Lục Ba-La-Mật”,  là sáu pháp: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ . Sáu pháp này tu đạt cứu cánh, gọi là Lục Ba-La-Mật.

(1) Bố thí: gồm tài thí, pháp thí và vô úy thí.  Tài thí gồm có ngoại tài và nội tài. Dùng tiền bạc, của cải, để giúp người nghèo đói là bố thí ngoại tài. Khi cần đến sức lực hoặc một phần thân thể mình như tặng máu, tặng một phần nội tạng để cứu người, đó là bố thí nội tài… Quan trọng là đem chánh pháp chỉ dạy cho mọi người tu hành để được giác ngộ giải thoát như mình là pháp thí. Dùng phương tiện giúp người qua cơn lo sợ hãi hùng là Vô Úy thí.  

“Bố thí Ba-La-Mật” là khi bố thí không thấy mình bố thí, không thấy kẻ thọ thí, không thấy vật đem bố thí. Mình, người và vật đều không, gọi là “tam luân không tịch”. Nếu mình thấy cái gì cũng thật thì không thể nào tu Ba-La-Mật được.

(2) Trì giới:  Là gìn giữ giới pháp của Phật răn cấm. Sau đây là ba nhóm giới thanh tịnh Bồ-tát phải thực hành:  (1) “Nhiếp luật nghi giới” là tuân thủ tất cả các loại giới luật do Đức Phật chế định, tích thiện ngừa ác.  – (2) “Nhiếp thiện pháp giới”, Bồ-tát tu chứng các pháp thiện lành. – (3) “Nhiêu ích hữu tình giới”, khi đã tu luật nghi và tu thiện pháp, Bồ-Tát luôn làm những điều lợi ích cho chúng sanh và phát nguyện cứu độ hết thảy chúng sanh. Các giới pháp này, nếu tu hành đến cứu cánh viên mãn, gọi là Trì giới Ba-La-Mật.

(3) Nhẫn nhục: Là sức cam chịu mọi hoàn cảnh khổ đau, bức bách tủi nhục đến với thân mình. Khi gặp những điều oan ức, thiệt hại đến danh dự, thân thể mà vẫn cam chịu để tròn hạnh nhẫn nhục. Nhẫn nhục khi đạt đến cứu cánh là một sức mạnh phi thường vì đã thực sự chiến thắng bản ngã.  Được thế mới gọi là Nhẫn nhục Ba-La-mật.

(4) Tinh tấn:  Là cố gắng nỗ lực. Nhờ chứng ngộ thấy thân mình như huyễn, chúng sanh như huyễn, độ hữu tình như huyễn, nên Bồ Tát không cảm thấy mệt mỏi  trên con đường tự lợi và lợi tha.

Tự lợi tinh tấn là dốc hết khả năng tu tập cho chóng thành đạo quả.  Tinh tấn lợi tha là dốc hết khả năng để cứu giúp người trên nhiều phương diện, nhất là giáo hóa cho họ giác ngộ. Cả hai bình diện tự lợi, lợi tha, Bồ-tát lúc nào cũng nỗ lực hành trì gọi là tinh tấn Ba-La-Mật.

(5) Thiền định: Do thấy mình không thật, nên không chấp ngã, không chấp nhân, không chấp cảnh. Nhờ vậy nên khi hành thiền, tâm dễ yên lặng đi vào định. Khi tâm và cảnh nhất như là thiền Ba-La-Mật.

(6) Trí tuệ:  Do dứt sạch mọi nhiễm ô, vọng tưởng, nên mặt trời trí tuệ vô sư chiếu sáng rực rỡ. Trí tuệ này do công phu tu thiền định mà phát xuất, chớ không phải do học tập mà được. Khi trí tuệ này hiển lộ, thì vô minh phiền não hoàn toàn tiêu sạch. Đây là trí tuệ Ba-La-Mật.

Hàng Bồ-Tát là những bậc phát Bồ Đề tâm rộng lớn, cầu thành “Phật quả” để độ chúng sanh, phát nguyện tu hành tự lợi, lợi tha, tự giác, giác tha, trải qua vô lượng kiếp, đến khi nào giác hạnh được viên mãn, mới đắc quả vô thượng Bồ Đề, nên gọi là Đại thừa.

Ngoài ra, còn một pháp môn đặc biệt thù thắng dành riêng cho người đại căn, đại trí, chỉ cần nghe một câu Kinh, một bài kệ, hay một cử chỉ nào đó, họ trực nhận ngay tánh giác Bồ Đề sẵn có của mình, chứ chẳng phải giảng giải dài dòng văn tự như Ngũ thừa. Pháp môn này vắn tắt chỉ ngay vào tâm người “thấy tánh thành Phật” gọi là “Tối thượng thừa”, là “Nhất thừa” hay “Phật thừa”.

                                             III. KẾT LUẬN

Vì căn cơ chúng sanh khác nhau, nên Đức Phật phương tiện thuyết ngũ thừa để giúp chúng sanh dần đạt được giải thoát tối hậu. Ngũ thừa Phật giáo ví như 5 loại xe gồm: Hai loại xe Nhân thừa và Thiên thừa giúp hành giả thoát khỏi ba đường dữ Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Ba loại xe khác là Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa và Bồ-Tát thừa giúp hành giả ra khỏi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới.

            Trước khi quyết định mình sẽ lên cỗ xe nào trong năm cỗ xe trên, thiết nghĩ chúng ta cần tự vấn xem mình muốn đi về đâu trong tương lai?  Cõi Người? Cõi Trời? Niết-Bàn hay thành Phật? Chúng ta biết rằng, quyền chọn lựa cỗ xe nào, đó là quyền của mình. Hành giả có thể lên chuyến xe Nhân thừa hay Thiên thừa hoặc chuyến Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa hay Bồ-Tát thừa. Không ai bắt buộc hay chọn lựa thay cho mình. Bởi vì chính hành giả là người tu tập, hành trì suốt thời gian trên chuyến xe mình ngồi, chứ không ai tu tập giùm mình cả. Đặc biệt là khi hành giả biết đang ngồi trên chuyến xe không thích hợp với căn cơ, khả năng, hay biết rằng chuyến xe mình đang ngồi sẽ không đưa mình đến nơi mong muốn, thì hành giả có thể tự thắng và chuyển sang xe khác không một thế lực nào cản trở.

Bài viết “Tìm Hiểu Thuyết Ngũ Thừa Phật Giáo” tạm ngưng nơi đây. Nguyện chúc cho chư hành giả trên các chuyến xe, hành trì tinh tấn, và mau chóng về tới bến đổ thanh tịnh an toàn. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật./.

                                                      THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

                                                (Chân Tâm thiền thất, 04-10-2023)

“Nghiệp” Tác Động vào Cái Chết của Con Người Như Thế Nào ?

I. DẪN NHẬP

          Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!

Cũng trong canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã chứng ngộ bốn chân lý, đó là Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Qua bốn đế này, chúng ta tạm hiểu là con người sinh ra đời không ai hoàn toàn vui vẻ hạnh phúc. Trong cuộc sống, chúng ta thường gặp những điều bất như ý khiến chúng ta buồn khổ nhiều hơn là an vui, nên gọi là Khổ đế. Nhưng khổ không phải tự nó có, mà khổ do nhiều nguyên nhân gây nên. Muốn diệt khổ phải tìm cho ra những nguyên nhân gây khổ để từ bỏ. Những nguyên nhân này gọi là Tập đế. Khi không còn Tập đế nữa thì con người sẽ được giải thoát hết khổ, gọi là Diệt đế. Nhưng làm sao để diệt các nguyên nhân gây ra khổ, nghĩa là làm sao đoạn diệt “lậu hoặc”, đức Phật đưa ra phương pháp tu tập gọi là Đạo đế. Đạo đế là “Con đường chân chánhgồm tám nhánh. Trong kinh gọi là “Bát Chánh Đạo” hay “Bát Thánh Đạo” là con đường tu tập đưa đến giải thoát giác ngộ của các bậc Thánh gồm: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định.  (Xem “Tương Ưng Giữa Giới-Định-Huệ và BátChánh-Đạo” trong quyển “Trên Đường Về Nhà” cùng tác giả).

Bài toán khó đã được đức Phật tìm ra phương trình giải đáp, phần còn lại,  chúng sanh muốn đạt được cứu cánh, phải tự mình áp dụng tu tập, trải nghiệm trên thân tâm của mình.

          Tất cả mọi người, mọi loài sinh ra ở thế gian này, đều trải qua chu kỳ “Sinh, Già, Bệnh, Chết”. Đức Phật nói “Sinh (sống), Già, Bệnh, Chết” là bốn cái khổ to lớn đè nặng trên mỗi con người. Trong bài viết này chúng ta chỉ đề cập đến nỗi khổ cuối cùng của đời người đó là cái chết. Nói về chết, thì ai cũng phải chết. Ngay cả đức Phật hay các vị Thánh Tăng đệ tử của Ngài cũng không thoát khỏi cái chết. Đúng rồi, ai cũng chết!  Nhưng không phải mọi cái chết đều giống nhau.  Có cái chết nhẹ nhàng thảnh thơi như kiểu chết của một số thiền sư bỏ thân phàm một cách nhẹ tênh như cởi bỏ chiếc áo bông cũ rách mùa đông để thay chiếc áo mới, hay cái chết quằn quại đau đớn sợ hãi của những con người phàm tục tham sống sợ chết?

          Là người phàm phu, đương nhiên chúng ta khó tránh được sự sợ hãi khi nghĩ đến cái chết. Chết là một nỗi thống khổ trong bốn cái khổ to lớn và vô số cái khổ khác mà con người phải chịu đựng trong cuộc sống ở thế gian này. Đối diện với cái chết con người thường lo lắng không biết lúc ra đi, mình sẽ đi như thế nào cho được an lành thanh thản? Và sau đó thì đi về đâu trong ba cõi sáu đường? Đương nhiên kinh nghiệm này chúng ta chưa trải qua nên không biết được cái chết sẽ đến với chúng ta ra sao? Nhưng là người Phật tử, chúng ta có niềm tin vào những lời dạy của đức Phật. Đức Phật dạy rằng con người sống bằng thực dưỡng và hơi thở. Chỉ cần một niệm thở ra và không hít vô nữa, thì người đó sẽ chết. Ngay khi đó thần thức lập tức tái sanh qua đời sống khác. Còn tấm thân tứ đại sẽ tan rã theo thời gian. Nhưng mà trước khi chấm dứt hơi thở thì tâm trạng của người sắp chết như thế nào?

Chúng ta, không ít thì nhiều cũng đã từng chứng kiến sự ra đi của người thân quen. Hoặc đã từng nghe nói có những vị tu hành lâu năm, mà khi ra đi rất vất vả, ngược lại có những người cả đời không biết một câu kinh tiếng kệ, mà ra đi một cách an ổn nhẹ nhàng. Tại sao thế? Người hiểu Phật pháp sẽ trả lời rằng: “Đó là do nghiệp nặng hay nhẹ của mỗi người”. Trong bài chia sẻ này chúng ta cùng nhau tìm hiểu khái quát về ảnh hưởng của nghiệp tác động vào cái chết của mỗi người, nhất là tìm hiểu thế nào là nghiệp nặng, thế nào là nghiệp nhẹ?

II. NGHIỆP LÀ GÌ?

          Nghiệp là những ý nghĩ, tư duy, lời nói và hành động được cất giữ trong ký ức của con người. Những ý nghĩ tốt hay xấu, những việc làm thiện lành hay ác độc, những lời nói êm ái hay xỉa xói kết hợp với những đam mê ghiền nghiện từ nhiều đời  trước, theo ta sang tới đời này cùng với những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến… mang đến hạnh phúc hay phiền não cho chính mình, hay cho những người xung quanh mình. Đó là nghiệp cũ đã đeo theo mình, cộng thêm nghiệp mới tạo ra trong đời này. Nghiệp là những nguyên tố đóng góp làm ô nhiễm tâm, trong nhà Phật gọi chung là “lậu hoặc”. Hễ còn “lậu hoặc” là còn sinh tử!

Nghiệp gây ra dù cố tình hay vô tình, dù quên hay nhớ, tất cả đều được cất giữ trong ký ức của người gây ra nghiệp.  Đức Phật dạy rằng: “Con người tạo ra nghiệp và thừa tự nghiệp mình đã gây ra”. Nghiệp cất giữ trong ký ức lâu ngày sẽ có năng lực ảnh hưởng tới đời sống của con người gọi là “Nghiệp lực”.

Người mang nghiệp nặng là người đã từng có những hành động xấu ác, trong tâm người đó luôn nặng nề vẩn đục, luôn nóng nảy bất an, có khi buồn khổ vì bứt rứt hối hận điều gì đó còn ẩn chứa trong tâm không thể nói ra trước khi chết. Lại có những dạng người trong giờ phút lâm chung phải chịu nhiều đau đớn, muốn chết ngay cũng không chết được. Đó là những người khi sống hành nghề đồ tể, giết bò, giết heo hay hại người đến chết. Những tiếng thét la đau đớn hằng ngày của những con người hay con vật bị ép tử đó, lúc này vây quanh ám ảnh, khiến tâm thức người sắp chết vô cùng hỗn loạn sợ hãi. Khi chết, cái tâm nặng nề đó bị nghiệp lực xấu cuốn hút sanh về đường dữ mà thuật ngữ trong kinh gọi là “ác thú”. Người mang nghiệp nhẹ là những người khi sống tạo ra nghiệp tốt nhiều hơn nghiệp xấu. Tóm lại, tùy theo nghiệp nặng hay nhẹ mà sự ra đi của người đó được nhẹ nhàng an nhiên hay khó khăn, chật vật, đau khổ?

III. CÁC LOẠI NGHIỆP QUYẾT ĐỊNH SỰ TÁI SANH

          Trong nhà Phật có bốn loại nghiệp quyết định sự tái sanh của người sắp chết. Đó là Thường nghiệp, Tích lũy nghiệp, Cực trọng nghiệp và Cận tử nghiệp.

A. THƯỜNG NGHIỆP

Thời nay, khoa học nói rằng một người có bộ não bình thường, ký ức tế bào não sẽ ghi nhận tất cả những gì con người làm hằng ngày qua tác ý, lời nói và hành động. Ngày xưa, đức Phật giảng rằng Thường nghiệp là những gì chúng ta làm hằng ngày qua ý, lời và hành động thành thói quen, được cất giữ trong tàng thức. Con người gây ra nghiệp gì thì sẽ thừa hưởng hậu quả của nghiệp ấy! Thường nghiệp có hai loại: Thiện và ác.

1.Thường nghiệp thiện: Còn gọi là “Tập quán nghiệp”. Tập quán nghiệp là những việc thiện hay ác mà người ta làm hằng ngày theo thói quen không từ bỏ được. Thường nghiệp thiện có thể nói là cuộc sống hằng ngày của con người, là việc làm thiện lành đóng góp vào sự phát triển của đời sống cộng đồng xã hội như những vị Bác sĩ cứu người, như những vị hành nghề giáo dục, truyền dạy văn hóa giúp học sinh mở mang kiến thức giúp đời, hay các nhà nghiên cứu tìm tòi phát minh trên nhiều mặt y học, khoa học, thiên văn, vật lý, kỹ thuật v.v… giúp cải thiện cuộc sống nhân loại trên hành tinh này. Chẳng hạn như mới đây trong một thời gian ngắn các nhà bác học đã nỗ lực phát minh ra các loại thuốc chích ngừa giúp xoa dịu sự kinh hoàng của nhân loại trước căn bệnh lây lan Covid-19 đã lấy đi mạng sống của gần 2 triệu người trên toàn cầu… Về đạo đức, như những người sống trong gia đình là những người con hiếu thảo thuận hòa, chăm sóc ông bà, cha mẹ già yếu với lòng trân trọng biết ơn người sanh ra và dưỡng dục mình. Là người chồng, người vợ chung thủy. Là bậc cha mẹ biết hy sinh vì con cái. Ra ngoài xã hội, là người hay làm việc thiện, đóng góp ít nhiều công sức vào những công tác thiện nguyện giúp người cơ nhỡ đói nghèo bất hạnh. Về tâm linh là người hay đến chùa nghe kinh nghe kệ, tham dự những khóa học Phật pháp hay nhập thất chuyên tu nhằm chuyển đổi nhận thức, chừa bỏ tật xấu, siêng làm việc lành tránh việc ác. Những việc phước báu như thế lâu ngày sẽ tạo nên sức mạnh gọi là “Thường nghiệp thiện” thúc đẩy người đó khi lâm chung được sanh trở lại Cõi Người hay lên Cõi Trời.

2. Thường nghiệp ác: Ngược lại với Thường nghiệp thiện là Thường nghiệp ác. Những người chuyên sống bằng các nghề mang lại sự đau khổ, chết chốc như thọc huyết bò, heo, chó, hành nghề buôn lậu, buôn bán người, buôn bán trẻ em, buôn bán sì-ke ma túy, độc dược, hay làm việc trong các kỷ nghệ chế tạo sản xuất súng đạn là những vũ khí giết người v.v… Những Thường nghiệp ác này kết tựu thành lực, và lực này đặc biệt sẽ tác động vào con người khi lâm chung tái sanh vào cõi xấu.

B. TÍCH LŨY NGHIỆP

Có sách ghi là “Bảo lưu nghiệp”, tích lũy hay bảo lưu là giữ lại. Tích lũy nghiệplà những việc làm nhỏ nhặt, tốt hay xấu, làm rồi mà không để tâm nhớ đến, nhưng nó vẫn được cất giữ trong tàng thức. Tích lũy nghiệp tuy không có công năng mạnh mẽ như Thường nghiệp, nhưng khi đủ lực, nó cũng ảnh hưởng đến cuộc sống của con người, bởi hễ gây nghiệp thì phải thọ quả nghiệp mình gây ra.

1. Tích lũy nghiệp lành: Chẳng hạn như một người đi đường thấy cây đinh liền lượm lên mang về nhà cho vào thùng rác. Người lượm đinh lúc đó không nghĩ là mình đang tạo nghiệp tốt, chỉ là không muốn mình dẫm lên cây đinh. Nhưng hành động này vô tình giúp cho những người khác không bị thương khi vô ý dẫm phải. Đây chính là hành động thiện lành. Hành động này đã được cất giữ trong tàng thức của người đó, mặc dù sau một thời gian người đó không còn nhớ tới và cũng không có cơ hội thường lượm đinh nữa! Một thí dụ khác, như giúp một cụ già băng qua đường, hay tặng cho người ăn xin vài đồng, hoặc thấy con mèo sắp vồ chú chim, người đó nhanh chân xua đuổi mèo giúp con chim thoát chết. Những việc làm này khác thời điểm, khác không gian, người làm không mấy chú ý quan tâm, nên sau một thời gian thì quên bẵng đi. Tuy vậy, những việc làm thiện nho nhỏ, tích lũy lâu ngày sẽ thành lớn, gọi là “tích lũy nghiệp thiện”, như nước rỉ từng giọt vào lu chứa, lâu ngày nước sẽ đầy lu.

2. Tích lũy nghiệp xấu: Là những việc làm ác ý hay không ác ý, khiến tổn thương những sinh linh khác, như trong nhà có mấy con gián cảm thấy bực mình đập chết. Ngoài sân có mấy ổ kiến mình rải thuốc hoặc xịt nước cho nó đi chỗ khác. Vô ý dẫm đạp côn trùng nhỏ dưới chân v.v… Trong cuộc mưu sinh hằng ngày thỉnh thoảng có những va chạm, nói năng xúc phạm người này, đụng chạm người khác, hay trong sở làm mình đối xử không công bằng, bênh vực người này, ép bức người kia, khiến người này vui, người kia tổn thương v.v… Lâu ngày quên mất!

Tất cả những việc nhỏ, lớn, dù thiện dù ác, dù cố ý hay tình cờ, nhớ hay không nhớ… đều tích lũy trong tàng thức của mình tạo thành nghiệp. Khi năng lực Tích lũy thiện mạnh tự dưng một ngày đẹp trời gặp người tốt giúp đỡ mình vô vụ lợi, hoặc gặp may mắn trong công ăn việc làm, hay xui khiến đang đứng chỗ này bỗng dưng dời sang chỗ khác không lý do, lại tránh được tai nạn. Khi nghiệp ác tích lũy nhiều, đủ năng lực, nó sẽ xuất hiện hỗ trợ Thường nghiệp ác, khiến cho người gây nghiệp trở tay không kịp, gặp chuyện xui rủi hay tai nạn bất ngờ. Nói chung, những may rủi họa phước xảy ra bất chợt giống như tình cờ đó, một phần có thể do Tích lũy nghiệp thiện hay ác thúc đẩy.

Tích lũy nghiệp không có sức mạnh lộ diện rõ ràng như Thường nghiệp, nhưng nó có sức mạnh giúp đỡ hỗ trợ hay ngăn cản những Thường nghiệp. Biết như vậy, chúng ta chớ xem thường những Tích lũy nghiệp này.

C. CỰC TRỌNG NGHIỆP

Cực trọng nghiệp là nghiệp có năng lực mạnh mẽ, cho Quả vượt trội hơn các nghiệp khác. Có hai loại: Cực trọng nghiệp thiện và Cực trọng nghiệp ác.

1. Cực trọng nghiệp ác: Trong Kinh văn, đức Phật dạy có năm cực trọng nghiệp ác là: Giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, làm Phật bị thương và chia rẽ hòa hợp Tăng. Ngày nay chỉ còn ba Cực trọng nghiệp, vì đời này không có vị A-la-hán, không có Phật. Người nào giết Cha, hay giết Mẹ hoặc gây chia rẽ Tăng đoàn thì cho dù người ấy làm nhiều việc tốt như đóng góp tiền tài vật chất xây cất chùa chiền, như góp công góp của đúc chuông, đúc tượng Phật, tượng Bồ-tát, sửa đường, xây cầu, đào giếng,  giúp nuôi trẻ mồ côi, giúp nuôi người già neo đơn v.v… nhưng lỡ phạm một trong ba cực ác này thì khi chết bị đọa liền địa ngục không ai cứu nổi.

2. Cực trọng nghiệp thiện: Có hai quả Cực trọng nghiệp thiện.

a) Thứ nhất là người nào cả đời thường làm những việc phước đức lớn lao. Khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh lên cõi Trời ngay tức khắc.

b) Quả thiện cực trọng thứ hai là đắc các tầng Thiền. Nếu trong giây phút lâm chung, người đó đắc thiền Định, thì Cực trọng nghiệp thiện này đưa người đó lên cõi Phạm Thiên liền. Còn những tội lỗi trước lúc chưa đắc Định hay những Thường nghiệp khác nếu có, không kịp trổ Quả trong lúc này.

D. CẬN TỬ NGHIỆP

Là nghiệp tạo ra ngay trước lúc chết, có năng lực vô cùng mạnh mẽ, ưu tiên trả Quả trước cả “Thường nghiệp”“Tích lũy nghiệp”. Thí dụ như một sát-na trước khi lâm chung mình đang nghĩ đến điều tốt đẹp, chẳng hạn như tưởng nghĩ đến hình ảnh đức Phật, đến một cảnh chùa quen thuộc, hoặc đang nghe một bài kinh, hay đang niệm Phật, hoặc đang trong thiền Định… Nếu ngay lúc đó chấm dứt hơi thở, thức cuối cùng do nghiệp lành thúc đẩy sanh về cõi lành ngay tức khắc.

Nếu tâm người sắp chết xuất hiện những sân hận thù ghét, những bực tức khó chịu, thì thức cuối cùng này đưa thần thức tái sanh đến những đường dữ, bởi những Thường nghiệp lành chưa đủ mạnh xuất hiện ngay lúc Cận tử nghiệp.

Nếu có nhiều phước báu gặp Cận tử nghiệp tốt, thì người sắp lâm chung ra đi nhẹ nhàng. Tuy nhiên cũng có trường hợp “Thường nghiệp ác” quá mạnh với sự hợp tác của “Tích lũy nghiệp ác” sẽ trồi lên đẩy Cận tử nghiệp tốt yếu ớt qua một bên, và dẫn tâm thức đi tái sanh vào cõi xấu ngay tức khắc,  hoặc vả Thường nghiệp thiện gặp duyên may trồi lên tác động tử thức tái sanh vào cõi lành. Nên thật khó biết được Cận tử nghiệp của mình ra sao, vì thế lúc sinh thời nên tu tập tạo nghiệp lành tránh nghiệp dữ, để mình có tư lương thiện lành mạnh mẽ chuẩn bị cho lúc cuối đời.

Đời nay, chúng ta thấy có nhiều gia đình khi có thân nhân sắp qua đời đã mời quý Thầy đến khai thị, tụng kinh, niệm Phật hộ niệm. Việc làm này có giá trị là giúp cho người sắp qua đời nghĩ nhớ đến những điều lành, hướng tâm đến Phật, buông bỏ tất cả những tình cảm luyến ái của cải trần gian để nhẹ nhàng ra đi. Trong giây phút Cận tử nghiệp mà tâm thần được an ổn, ý thiện xuất hiện ngay lúc đó sẽ được tái sanh về cõi lành. Đó là tự mình cứu lấy mình, chứ những người hộ niệm xung quanh chỉ hỗ trợ giúp mình mà thôi!

IV. BA GIAI ĐOẠN XUẤT HIỆN

TRONG TÂM NGƯỜI SẮP LÂM CHUNG

Theo lời dạy của các bậc tôn túc, thì khi người sắp lâm chung thường có ba giai đoạn hiện ra trong tâm người sắp tắt thở. Thứ nhất là Thường Nghiệp; thứ hai là Nghiệp tướng; thứ ba là Thú tướng.

1. Thường nghiệp: Thường nghiệp nào mạnh nhất sẽ xuất hiện trong giờ phút lâm chung. Nghiệp này thúc đẩy thức đi tái sanh.

2. Nghiệp tướng: Tướng là hình ảnh. Nghiệp tướng là những hình ảnh liên hệ đến Thường nghiệp. Nếu Thường nghiệp thiện thì những hình ảnh thiện lành hiện ra trong tâm người sắp làm chung. Chẳng hạn như người ấy thấy mình đang dạo chơi trong một rừng hoa, đang tụng kinh niệm Phật, đang đọc quyển sách hay, đang lắng nghe tiếng chuông chùa v.v… Nếu Thường nghiệp ác xuất hiện thì trong tâm người sắp mất sẽ thấy những hình tượng ghê gớm dữ dằn chẳng hạn như thấy một hồ máu chận trước đường đi, thấy mình lạc vào khu rừng âm u, tối tăm không biết lối ra, hay thấy những con thú dữ đang gầm gừ muốn xé xác mình v.v…

Đó là những hình ảnh xấu hay tốt hiện ra trong tâm người sắp mất tùy theo sự thúc đẩy của Thường nghiệp, gọi là Nghiệp tướng.

3. Thú tướng: Khi Nghiệp tướng phát sanh thì tâm thức tái sanh nắm bắt cảnh giới tái sanh tương ưng ngay trước mắt tức khắc. Thú tướng là nơi tử thức sẽ tái sanh.

Thí dụ như “Thường nghiệp lành” xuất hiện, thì “Nghiệp tướng lành” hiện ra trong tâm người sắp lâm chung, toàn những cảnh thanh nhàn u nhã, tâm người đó nhẹ nhàng, hoan hỷ, thì “Thú tướng” nắm bắt ngay chỗ tương ưng, hiện ra cảnh giới mà người đó sẽ tái sanh, có thể sanh lên làm Người hay được thăng thiên lên cõi Trời.

Nếu như sống trên đời, mình phạm quá nhiều tội ác, giết người hại vật. Khi sắp chết, năng lực “Thường nghiệp ác” xuất hiện, “Nghiệp tướng xấu” hiện ra những cảnh ghê rợn, khiến người sắp chết hoang mang sợ hãi. Ngay lúc đó, “Thú tướng” xuất hiện một trong bốn ác đạo mà người đó sẽ tái sanh vào đời kế tiếp.

Gặp “Nghiệp tướng xấu” này, người sắp lâm chung rất cần sự hộ niệm của mọi người để nhắc nhở tâm thức người này nương tựa vào lời niệm Phật, lấy lại sự bình tỉnh sáng suốt mà ra đi.

Làm sao biết được hình ảnh nào xảy ra trong tâm người sắp mất? Tạm trả lời là nếu hình ảnh ghê rợn xuất hiện trong tâm thì khuôn mặt người sắp mất lộ nét sợ hãi, chừng như cưỡng lại không muốn chết. Nếu hình ảnh an vui nhẹ nhàng xuất hiện trong tâm, thì nét mặt của người sắp chết lộ nét thanh thản tươi tắn, ra đi nhẹ nhàng.

V. KHI NÀO “NGHIỆP” TRỔ “QUẢ” ?

Chúng ta biết tất cả những suy nghĩ, nói năng hay hành động dù tốt hay xấu đều được cất giữ trong ký ức tạo thành Nghiệp. Tất cả những hành vi tạo tác qua thân, miệng, ý ấy chính là Nghiệp, là Nhân. Khi đủ duyên thì Nhân trổ Quả. Trong cuộc sống của chúng ta Quả trổ ra rất nhiều lần, có khi nhẹ, có khi nặng, có khi trổ ngay trong đời này hoặc trổ ở đời sau… Nghiệp được phân biệt theo thời gian trả Quả có bốn loại:

1. Nghiệp trả Quả tức khắc, còn gọi là Hiện nghiệp: Là Nghiệp gây ra trong đời này, trước sau gì cũng phải trả ngay trong đời này.

2. Nghiệp trả Quả tiếp theo: Sau khi lìa bỏ kiếp sống hiện tại, tái sanh vào kiếp tới, mới trả Nghiệp gây ra trong kiếp này.

3. Nghiệp Vô Tận: Là Nghiệp trả Quả sau kiếp tái sanh, cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi sinh tử.

4. Nghiệp Vô Hiệu: Nếu “Nghiệp Tức Khắc” không đủ duyên trổ Quả trong kiếp này thì trở thành Vô hiệu. Nếu “Nghiệp cho Quả  trong kiếp sau” không đủ điều kiện thuận lợi để trả thì trở thành Vô Hiệu. Nhưng “Nghiệp Vô Tận” thì không thể Vô Hiệu được. Nghiệp này tồn tại mãi cho đến khi chấm dứt vòng luân hồi mới ngưng.

Tóm lại, khi “Nghiệp trả Quả tức khắc” “Nghiệp trả Quả trong kiếp tới” không đủ duyên thì chúng trở nên Vô Hiệu. Riêng “Nghiệp Vô Tận” sẽ theo chúng sanh từ đời này sang đời khác. Khi thì làm Người, khi thì làm Trời hoặc sinh ra trong các cảnh Khổ để trả nghiệp cho tới khi nào chấm dứt luân hồi. Tất cả chúng sanh đều có kho chứa Nghiệp Vô Tận này. Gặp hoàn cảnh hay cơ hội thuận tiện Nghiệp sẽ trồi lên khiến ta nhận Quả tốt hay xấu do chính ta gây ra từ nhiều đời nhiều kiếp.

VI. THẾ NÀO LÀ NGHIỆP BẤT THIỆN VÀ NGHIỆP THIỆN ?

Sống ở đời thật khó mà giữ không tạo Nghiệp. Nếu không tạo Nghiệp thì chúng ta đã không sanh làm Người trong đời này. Mà cho dù sanh ở đâu? Cõi lành hay cõi dữ, thì đó cũng là cách chúng ta chết đi rồi tái sanh vào một trong các cõi đó để thọ nghiệp. Sanh cõi lành là nhờ chúng ta đã tạo nhiều điều lành. Còn sanh vào đường dữ là do chúng ta đã tạo nhiều nghiệp dữ qua thân, khẩu, ý. Có mười loại Nghiệp dữ hay Nghiệp bất thiện như sau:

– Ba nghiệp bất thiện về Thân:

1) Nghiệp sát sanh: Là giết người, súc vật và ngay cả những côn trùng bé nhỏ. Người nào giết hại một hay nhiều chúng sanh là người đó đã tạo Nghiệp ác.

2) Nghiệp trộm cắp: Là lấy bất cứ vật gì mà chủ nhân không đồng ý. Lường gạt giờ làm việc, làm ít khai nhiều để ăn lương cũng là hành động trộm cắp.

3) Nghiệp tà hạnh: Là thông dâm với người không phải là vợ hay chồng của mình, hãm hại hiếp dâm người khác hay có những hành động bất chánh tà vạy đối với mọi người và ngay cả với chính bản thân mình. Ngoài ra, đánh đập người hay súc vật để thỏa mãn thú tính của mình cũng thuộc về tà hạnh.

– Bốn nghiệp bất thiện về Khẩu:

1) Nghiệp nói dối: Chủ tâm nói không đúng sự thật gây tai hại, làm mất nhân phẩm hay khiến người khác lâm vào tình trạng hiểm nguy.

2) Nói lời đâm thọc: Với mục đích gây chia rẽ người khác.

3) Nói lời hung dữ: Dùng lời hung dữ, cộc cằn, thô lỗ thóa mạ khiến người khác bị tổn thương.

4) Nói lời vô ích: Dùng lời hoa mỹ để tự tôn vinh mình, hoặc nói chuyện trên trời dưới đất không giúp ích gì cho việc tu tập thoát khổ giác ngộ.

– Ba nghiệp về Ý:

1) Tham (lam): Có tâm muốn chiếm đoạt vật sở hữu của người khác làm của mình.

2) Sân (hận): Tâm giận dữ, thù ghét… cầu mong kẻ thù bị hãm hại, bị thương vong.

3) Si (tà kiến, xử dụng chất say): Xử dụng chất say khiến tâm không còn tỉnh táo dễ gây ra những hành động hại mình hại người tạo Nghiệp ác. Chấp tà kiến không tin Nhân Quả, cho rằng không có Nghiệp nên tự do tạo Nghiệp ác.

Ba nghiệp này chưa phải là hành vi thực hiện qua thân và lời mà chỉ là ý nghĩ xuất hiện trong Tâm. Do đó tham, sân, si được gọi là ba Nghiệp về Ý.

Trên đây là mười Nghiệp bất thiện. Ngược lại với bất thiện là mười Nghiệp lành. Đó là: 1) Không sát sanh, 2) Không trộm cắp, 3) Không tà hạnh, 4) Không nói dối, 5) Không nói lời đâm thọc, 6) Không nói lời hung dữ, 7) Không nói lời vô ích, 8) Không tham, 9) Không sân, 10) Không Tà kiến (Si).

                                                     VII. KẾT LUẬN

Chúng ta biết rằng từ vô thủy vô chung đến nay, không một người nào sanh ra đời sống mãi với thời gian. Con người là một hiện hữu nhỏ nhoi và ngắn hạn trong vũ trụ. Tuổi thọ lâu nhất của đời người dài lắm cũng chỉ hơn trăm năm đôi chút. Trong đời sống trầm luân vui buồn đau khổ này, có ai không tạo nghiệp? Tạo nghiệp thì phải chịu luân hồi tái sanh để thọ nghiệp đã gây.

Muốn thoát khỏi luân hồi sinh tử, đức Phật dạy là phải tu tập làm sạch lậu hoặc tức sạch nghiệp. Mà nghiệp đã gây ra từ nhiều đời nhiều kiếp, đến đời này nghiệp quá sâu dày làm sao xóa được? Theo đạo Phật thì chúng sanh có thể tu tập để sạch nghiệp. Đức Phật chỉ cho chúng sanh 37 phương thức tu tập để hỗ trợ cho việc đoạn trừ lậu hoặc cũng có nghĩa là làm sạch nghiệp mà chúng sanh đã gây ra, trong đó phải kể đến Bát Thánh Đạo. Tùy theo căn cơ chúng sanh chọn cho mình pháp thích hợp để tu tập.

Phương thức tu hành nào của Phật dạy cũng đều thông qua Giới-Định-Huệ.

Giới là sống đàng hoàng không gây ra những lỗi lầm hại người, mà hại người cũng chính là tự hại mình. Đó là tránh hành “Mười Nghiệp Bất Thiện” nêu trên. Cơ bản: “Siêng làm việc lành, tránh làm việc ác” tức là siêng tạo Thường Nghiệp thiện lành, tránh gây Thường Nghiệp bất thiện.

Ngoài ra Phật cũng dạy “nên giữ Ý trong sạch” nghĩa là trong tâm không khởi ý phân biệt tốt xấu hại người mà nên phát huy tâm từ bi hỷ xả đối với tất cả mọi chúng sanh với tâm tôn trọng bình đẳng.

Muốn đạt cứu cánh rốt ráo hành giả chọn tu theo con đường đức Thế Tôn dạy là thực hành “Bát Thánh Đạo”. Muốn tu đúng, mình cần có Chánh kiến, Chánh tư duy để phân biệt chánh, tà, tức phân biệt điều thiện thì làm, điều ác thì tránh. Mình hành thiện bằng cách thực hành đúng theo Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng nghĩa là mình giữ Giới, tránh gây những Thường nghiệp ác qua thân, khẩu, ý. Bên cạnh đó mình giữ Chánh niệm, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, giữ niệm Biết không lời về sáu trần, không để vọng niệm hiện tại xen vào khen chê, hoặc ký ức quá khứ gây phiền não, hay trí năng rượt đuổi chuyện chưa xảy ra ở tương lai. Tất cả những hành này đều là nguyên nhân gây nên Nghiệp xấu.

Ngoài việc giữ Giới trong sạch, hành giả cần tu thiền Định. Trong trạng thái Định sâu (giới thể trong sạch) các lậu hoặc sẽ bị cô lập không trồi lên. Trong trạng thái tâm trong sạch, yên lặng, định tĩnh đó… bất chợt vọng tưởng khởi lên, hành giả lặng lẽ ghi nhận các pháp tự đến tự đi, tự sinh tự diệt, mà không phản ứng gì. Hành giả nhận thức như thật các pháp này đều vô thường, vô ngã, trống rỗng, hành giả yểm ly không dính mắc, ngay lúc đó hành giả ở trong trạng thái Định-Huệ đồng thời, tuệ tri mình thoát khổ giải thoát.

Nếu ở trong trạng thái này (Cực trọng thiện nghiệp) khi thân hoại mạng chung hành giả không còn bị ảnh hưởng của nghiệp, sẽ sanh về các cõi Trời (Dục, Sắc hay Vô Sắc) hay cõi Người theo nguyện lực, để tiếp tục đời sống tu tập tiến hóa trên con đường tâm linh. Còn như lúc sinh thời hành giả sống theo lời Phật dạy chỉ làm những việc thiện lành tránh làm việc ác, thì Thường nghiệp lành xuất hiện thúc đẩy hành giả tái sanh đến cõi lành.

Hiện tại, chúng ta đang sống ở cõi đời tạm bợ này, tuy là người phàm phu, nhưng trộm nghĩ chúng ta cũng đã tạo nhiều phước lành ở đời trước nên đời này mới được làm người. Từ mấy ngàn năm qua, chư Tổ đã kết tập lại lời dạy của đức Phật, kinh điển ghi rõ lại những chân lý, phơi bày trọn vẹn con đường Giới-Định-Huệ để hướng dẫn chúng sanh tu tập. Con đường Giới-Định-Huệ không từ chối bất cứ một ai. Muốn bước lên con đường này để đi đến giải thoát giác ngộ hay không, là do quyết định của mỗi người, không ai ép buộc.

Chúng tôi tạm ngưng bài chia sẻ “Nghiệp Tác Động Vào Cái Chết Của Con Người Như Thế Nào?” tại đây!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

Bài giảng trong mùa An Cư tháng 04-2021 tại

Thiền Viện Chân Như, Navasota, Texas, Hoa Kỳ.

Tu “Hạnh Buông Xả”

Thích Nữ Hằng Như

I. DẪN NHẬP

Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.  Người có nghề nghiệp vững chắc thì lo nghĩ đến việc làm sao tạo nhà cửa, xe cộ, tiền bạc đầy đủ cung phụng cho gia đình. Người có lòng tốt thì muốn được dư giả ít nhiều góp sức giúp đỡ người cơ nhỡ thiếu thốn nghèo khó… Vấn đề lo lắng này, nói lên tinh thần trách nhiệm và bổn phận chăm lo cho người thân trong gia đình là điều tốt nên làm!

Nhưng thói thường ít ai chịu dừng lại ở một mức độ nào đó, mà luôn muốn ráng  kiếm thêm chút nữa, thêm chút nữa,  rồi chút nữa, không chịu buông,  cho đến khi sức khỏe kiệt quệ… cũng chưa muốn buông! Có ai khuyên nên buông bớt đi, thì câu trả lời thường là để từ từ… Nếu sự mong cầu được thỏa mãn thì sự cố gắng lo lắng được phần nào đền bù, ngược lại thì khổ. Đó là phần khổ về vật chất, còn về phần tình cảm gia đình, nhà nào êm đềm hạnh phúc, con cái ngoan ngoãn, hiếu học, chồng vợ yêu thương chung thủy…  thì mừng. Không may lỡ con cái hư hỏng, chồng hay vợ thay lòng đổi dạ thì người trong cuộc khổ biết dường nào! Để giúp mọi người có đời sống quân bình hạnh phúc, giáo lý nhà Phật có pháp tu “Hạnh buông xả”. Vậy thế nào là “Hạnh buông xả”?

                                         II. HẠNH BUÔNG XẢ

Buông xả: Có nghĩa thông thường là buông bỏ, xóa bỏ, xa lìa, không chấp nhận… Trái nghĩa với buông xả là dính mắc, bám víu, chấp nhặt…

  Buông xả dịch từ tiếng Pãli là “upekkha” có nghĩa là “cho qua”, trong giáo lý nhà Phật, thuật ngữ này chỉ cho “đức tính buông xả” hay “trạng thái quân bình của tâm”.  

Tâm quân bình hay tâm xả  là tâm không niệm lạc, niệm khổ quấy rầy nên cũng được xem là tâm thanh tịnh. Để đạt được “tâm buông xả” hành giả phải tu tập theo lời Phật dạy. Phải biết sống “thiểu dục tri túc”, buông bỏ lòng tham lam, vị kỷ nhiều chừng nào thì thân tâm nhẹ nhàng, an lạc nhiều chừng nấy. Ngoài ra, hành giả còn phải tu tập duy trì chánh niệm hằng ngày để tâm được rỗng lặng, hoặc tu quán, để tuệ tri những gì cần buông bỏ thì không nên cố chấp.

Người mới tu tập thiền, tâm chỉ yên lặng bình an trong một khoảng thời gian rất ngắn, bởi tầm và tứ, là sự nói thầm trong não, thỉnh thoảng vẫn còn xuất hiện khiến tâm dao động. Vì vậy hành giả tu thiền phải đạt được trạng thái tầm tứ yên lặng, tức Ngôn hành yên lặng, và Ý hành tức thọ, tưởng không động, thì tâm mới thực sự buông xả.

                 III. NHỮNG ĐIỀU CẦN BUÔNG XẢ ĐỂ CÓ HẠNH PHÚC

            Là người phàm phu, chúng ta thường hay dính mắc nhiều tật xấu gọi chung là ác pháp. Càng dính mắc với nhiều ác pháp chúng ta càng đau khổ nhiều. Dưới đây là một số ác pháp chúng ta cần buông bỏ để có cuộc sống an vui hạnh phúc.

 1) Buông bỏ sự ân hận dai dẳng: Trên đời này, không một ai dám tự nhận mình không hề phạm lỗi lầm, ngoại trừ người đó là đức Phật hay các bậc thánh A-la-hán. Những lỗi lầm chúng ta gây ra do vô tình hay cố ý khiến những người xung quanh phiền muộn, đau khổ. Gây khổ cho người, bản thân chúng ta khi nghĩ đến cũng cảm thấy ray rứt hối hận. Trong pháp tu nhà Phật có pháp “Tàm Quý ” là pháp biết xấu hỗ khi phạm lỗi lầm, thành tâm sám hối và chừa bỏ không tái phạm nữa, tạm xem như sạch tội lỗi. Buông bỏ sự ân hận dai dẳng không có nghĩa là mình đồng lõa với mọi sự dễ dãi, xem nhẹ lỗi lầm. Vì nếu mình dễ dãi cho qua, thì mình sẽ dễ dàng tái phạm, và cứ thế tội lỗi ngày một chất chồng tạo thêm nhiều ác nghiệp.

Cho nên, sau khi hối hận, thành tâm sám hối. Bây giờ là lúc chúng ta nên buông xả sự ray rứt hối hận đó đi! Như một chiếc khăn bị dính mực, mình giặt sạch rồi, tuy vết mực không hoàn toàn bay mất, nhưng mình không nên cứ vò mãi dấu vết mực đã phai. Vò mãi một chỗ như thế, coi chừng chiếc khăn sẽ bị rách!

             2) Buông xả lòng ích kỷ: Người có lòng ích kỷ là người luôn muốn gom tất cả mọi thứ về cho riêng mình. Người ích kỷ không hề muốn chia xẻ bất cứ thứ gì mình có, cho người khác, dù là những người đang thiếu thốn nghèo khổ cần sự giúp đỡ bố thí.

Chúng ta hãy buông bỏ tánh ích kỷ, thay thế vào đó là lòng rộng lượng thương yêu. Hãy học tánh từ bi vô lượng nơi đức Thế Tôn. Sau khi thành đạo, Ngài đã dành bốn mươi lăm năm đi giáo hóa nhiều nơi trên đất Ấn, nhằm giúp chúng sanh giác ngộ thoát khổ. Đến lúc từ giả các đệ tử để nhập Niết-bàn ở tuổi tám mươi, Ngài còn tế độ cho một đệ tử cuối cùng là lão du sĩ ngoại đạo Subhadda (Tu-Bạt-Đà-La) bấy giờ đã một trăm hai mươi tuổi. Sau khi đức Phật nhập diệt không lâu sau đó, tôn giả Tu-Bạt-Đà-La đắc quả A-la-hán.(***)

            Muốn buông xả lòng ích kỷ, chúng ta cần tập sống hy sinh và yêu thương mọi người. Chúng ta chịu thiệt thòi một chút mà được nhìn thấy sự hạnh phúc của người khác, đó không phải là phần thưởng tinh thần cho chúng ta hay sao?

            3) Buông xả sự kiêu ngạo: Đời người ngắn ngủi, sở học của mỗi người như “nắm lá trong tay, những điều cần học hỏi thì giống như lá trong rừng”. Điều này có nghĩa là kiến thức chúng ta rất hạn chế, tài năng cũng giới hạn, cái biết chỉ ở trong một lãnh vực nào đó, mà cứ ngỡ kiến thức của chúng ta trùm khắp thiên hạ, cái gì cũng biết hết! Tính kiêu ngạo tự mãn, khiến chúng ta dừng lại một chỗ, không phát triển được sở học, sở hành của mình…  Do đó buông bỏ tính kiêu ngạo là điều cần thiết mang lại cuộc sống an lạc và hạnh phúc cho chúng ta.

4) Buông bỏ oán hận: Thay vì ôm ấp trong lòng mối oán hận về một người đã phản bội hay lừa gạt mình. Chọn thái độ buông bỏ oán hận để tâm trạng được ổn định đón nhận niềm vui mới.

5) Buông bỏ sự lười biếng: Dù là cư sĩ tại gia hay người xuất gia. Những ai có tính lười biếng (trái ngược với sự tinh tấn), thì nên buông bỏ chấm dứt nó đi. Lười biếng chỉ khiến cuộc sống của chúng ta ngày một đình trệ, đưa đến thất bại, phiền não. Buông bỏ tánh lười biếng, nỗ lực siêng năng sẽ giúp chúng ta sớm thành tựu trên con đường học vấn, thành công trong nghề nghiệp, tiến xa trên con đường tu tập tâm linh  v. v… Nhờ vậy, cuộc sống sẽ được vui vẻ hạnh phúc hơn.

6) Buông xả phiền muộn do người ngoài mang đến: Ngoài việc buông xả những ác pháp do thói quen của mình gây nên. Chúng ta cũng cần buông xả những phiền muộn do người khác vô tình hay cố ý làm tổn thương mình. Nếu chúng ta có thể tự tha thứ lỗi lầm của chúng ta đối với người khác được, thì cũng nên tha thứ những lỗi lầm của người khác mang đến cho chúng ta. Bởi vì nếu chúng ta không xả bỏ, thì sự bất an và phiền muộn ngày một gia tăng chỉ khiến chúng ta khổ tâm, bực tức, ăn không ngon, ngủ không thẳng giấc, chứ người gây phiền muộn cho chúng ta, họ vẫn nhỡn nhơ vui vẻ sống.

Trong đời sống gia đình, giữa các thành viên ruột thịt với nhau , dù thương yêu nhường nhịn nhau cách mấy cũng sẽ có những bất đồng ý kiến, những xung đột phiền toái có thể xảy ra. Nếu chúng ta cứ giữ mãi những điều phật lòng do thân nhân hay người ngoài gây ra, chỉ khiến cho cuộc sống của chúng ta ngày thêm nặng nề phiền muộn, dễ đưa đến căn bệnh trầm cảm. Đức Phật đã từng khuyên “mọi phiền muộn người khác mang đến cho chúng ta, giống như họ mang đến cho chúng ta món quà, nếu chúng ta không nhận lấy thì gói quà ấy ắt về với họ”. Thái độ xả bỏ phiền muộn giúp cho tâm chúng ta nhẹ nhàng thảnh thơi như vừa buông gánh nặng trên vai xuống vậy!

Trên đây, chỉ là một vài điều cần buông xả để tâm chúng ta được nhẹ nhàng thanh thản. Thực ra, trên con đường tu tập để đi đến giác ngộ giải thoát, hành giả còn nhiều bất thiện pháp phải buông bỏ như: tham, sân, si (tà kiến), mạn, nghi, đố kỵ v. v…

                       IV. “BUÔNG XẢ” TRONG BỐN TẦNG THIỀN ĐỊNH      

Trong bài “Kinh Sợ Hãi và Khiếp Đảm” (*) có ghi lại một đoạn đức Phật mô tả sự trải nghiệm của Ngài qua bốn tầng Thiền cho Bà-la-môn Janussoni (**) tại Kỳ-đà-lâm (Jetavana), vườn ông Cấp-Cô-Độc (Anathhapindika). Nguyên văn kinh văn như sau:                                              

        “Này Bà-la-môn, Ta ly dục, ly các ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Diệt  tầm, diệt tứ, Ta chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc  do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, Ta chứng và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu, đã cảm thọ trước, Ta chứng và an trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.” (hết trích)

            Trong đoạn kinh trên, đức Phật có đề cập đến các thuật ngữ: “ly (dục); ly (các ác pháp) diệt (tầm) diệt (tứ); ly (hỷ trú xả); xả (lạc), xả (khổ), diệt (hỷ ưu…)”.  Ý nghĩa của các thuật ngữ trong đoạn kinh này, chúng ta có thể hiểu như là “buông bỏ, buông xả” hay “chấm dứt, đoạn tận”.

– “Ly dục, ly các ác pháp” có nghĩa là Ngài lìa bỏ, buông bỏ mọi khát ái, dục vọng, tài, sắc, danh, thực, thùy (từ bỏ ngai vàng, ngôi vua, vợ đẹp, con ngoan, cuộc sống lợi dưỡng vật chất xa hoa…)

– “Diệt tầm, diệt tứ” có nghĩa là đoạn tận, chấm dứt tầm tứ.

– “Ly hỷ trú xả” buông bỏ, không dính mắc với hỷ, là niềm vui trong tâm do định sanh, chỉ trú trong xả, tức trong tâm định không tầm không tứ.

– “Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước nghĩa là đức Phật buông lạc, buông khổ (thân), buông luôn hỷ và ưu (tâm).

Tóm lại, qua bốn tầng Thiền, đức Phật đã buông xả mọi khát dục, tình ái, xa lìa mọi ham thích ngũ dục, là các bất thiện pháp, chứng và an trú tầng Thiền thứ nhất. Tiến lên bước nữa là diệt tầm diệt tứ, tức buông bỏ mọi vọng tưởng dao động trong tâm, chứng và trú tầng Thiền thứ hai. Tiếp theo, Ngài ly hỷ, tức biết trong tâm có hỷ nhưng không dính mắc với nó mà trú trong tâm xả, là tâm yên lặng (không tầm không tứ). Sau cùng Ngài buông lạc, khổ, hỷ, ưu đã  có từ trước. Ngay lúc này không còn lạc, không còn khổ, chỉ còn niệm thanh tịnh, Ngài xả luôn niệm thanh tịnh, chứng và an trú trong tầng Thiền thứ Tư gọi là Định Bất Động .

                                                              IV. KẾT LUẬN

Trên bước đường tu theo Phật, “Hạnh buông xả” đóng một vai trò vô cùng quan trọng, là pháp tu cần thiết trong đời sống hằng ngày của người cư sĩ cũng như của người xuất gia tu hành giải thoát. Thuật ngữ “xuất gia” có nghĩa là rời bỏ gia đình, nhà cửa, sự nghiệp. Xả bỏ vật chất, tình cảm riêng tư,  hành giả mới nhẹ nhàng thong dong, đặt hết tâm trí vào việc tu hành. Đối với Phật tử tại gia, buông bỏ một số vấn đề cũng chính là hành động có trí tuệ, như xả bỏ những tánh ác xấu, tự nhiên trở thành người thiện lương v. v…

Thông thường, con người hay bị lôi cuốn theo những gì mà bản thân cảm thấy ưa thích dễ chịu, nhưng lại phản ứng khó chịu khi gặp phải những đối tượng không ưa, không thích. Trong giáo lý nhà Phật nói đó là hai loại cảm thọ: Lạc và Khổ.  Khi không có khả năng để buông xả Lạc và Khổ, thì chúng ta sẽ dễ dàng bị cuốn vào dòng xoáy của hai loại cực đoan: tham muốn (lạc) và chán ghét (khổ) tức tham và sân.

Trong hành trình tìm kiếm hạnh phúc, người tu “Hạnh buông xả” sẽ có cơ hội trải nghiệm được sự bình an nội tại. Buông xả ít thì giải thoát ít, buông xả nhiều thì giải thoát nhiều, ngược lại dính mắc ít thì đau khổ ít, dính mắc nhiều thì đau khổ nhiều.  

Như bốn tầng định nêu trên, hành giả phải buông xả tất cả mọi thứ trong tâm, ngay cả “niệm thanh tịnh” cũng không bám víu, chỉ còn Nhận thức biết không lời thì mới thành tựu được tầng định cao nhất là Bất động định, còn gọi là Chân Như định. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Thích Nữ Hằng Như

(Sinh hoạt online với đạo tràng Tánh Không Sacramento và San Jose, CA ngày 24-9-2023)

Tài liệu:

(*) Trung Bộ Kinh I: Bài 4 “Kinh Sợ Hãi và Khiếp Đãm”, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ văn Pàli sang Việt ngữ.

(**) Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, Bà-la-môn Janussoni quy y Phật, Pháp, Tăng.

(***) Kinh Trường Bộ tập I,  Tụng phẩm 5 ; Cố HT. Thích Minh Châu chuyển dịch từ kinh Pãli.

Học Thuyết “Thường, Lạc, Ngã, Tịnh”

Thích Nữ Hằng Như

       I. DẪN NHẬP Đến với đạo Phật, người Phật tử thường được dạy các pháp nền tảng như: Quán, Chỉ, Định, Huệ. Quán là nhìn các pháp bằng con mắt tâm. Quán lâu dài, hành giả sẽ nhận ra mọi thứ trên đời đều thay đổi theo không gian, thời gian. Riêng con người chẳng những thay đổi hình tướng bên ngoài, mà cái tâm cũng thay đổi từng giây từng phút. Lúc nghĩ thiện, khi nghĩ ác, lúc vui vẻ, khi phiền muộn…

Đã thế tâm còn chất chứa đầy vẫy những tham, sân, si, là những thứ ô nhiễm khiến con người ta thường ở trong trạng thái dao động tạo nghiệp, nên cái tâm đó bị xem là tâm bất tịnh, gọi là Vọng tâm.  Thực ra, tâm thì chỉ có một. Khi nó dao động thì gọi là Vọng tâm, là tâm của kẻ phàm phu. Khi nó yên lặng, trong sáng, thanh tịnh thì gọi là Chân tâm, là tâm của bậc Thánh.

Do sự thực tập phép Quán,thấu hiểu được đặc tánh của hiện tượng thế gian là “Vô thường, Khổ, Vô ngã”, từ đó có khả năng thoát khỏi khổ đau, nhờ sự chuyển hóa của tâm thức về các sự kiện tác động lên tâm thể của người đó. Khổ hay hạnh phúc khởi sinh rồi sẽ biến đi không ở mãi với mình. Khi pháp đến, mình chỉ cần tỉnh thức nhìn pháp đến, pháp trụ, rồi pháp đi… Pháp là pháp, pháp không phải là mình, mình không vướng mắc với pháp, thì tâm mình sẽ được bình ổn.

Tuy  hiện tượng thế gian “Vô thường, Khổ, Vô ngã” có tác dụng chuyển, hóa tích cực cho những ai hành trì nó, nhưng trên thực tế, vô minh phiền não vẫn chưa hoàn toàn diệt tận, bởi lậu hoặc, tập khí, kiết sử, tùy miên chỉ bị cô lập chứ chưa thực sự biến mất, do đó sự thoát khổ, giác ngộ của hành giả chưa được rốt ráo. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật cho rằng con đường đạo chưa thể dừng lại ở mức này, mà phải tiến xa hơn với pháp “Thường, Lạc, Ngã, Tịnh” tức tu tập hướng tới Niết-Bàn. (*) Vậy thế nào là “Thường, Lạc, Ngã, Tịnh”?

II. “THƯỜNG, LẠC, NGÃ, TỊNH”

LÀ BỐN ĐỨC TÍNH CỦA NIẾT BÀN

            Niết-bàn phiên âm từ tiếng Phạn là Nirvãna (Sanskrit), Nibbãna  (Pali), dịch theo Hán Việt là “diệt độ”, “diệt tận”,  “tịch diệt”, “bất sinh” hay “giải thoát”. Do vậy,  Niết-bàn không phải là một thực thể, một nơi chốn tận cùng an lạc nào đó, không phải đợi đến khi chết đi mới nhập vào Niết-bàn, mà Niết-bàn tồn tại trong thâm tâm của mỗi con người.  Theo quan niệm của Phật giáo thì Niết-bàn là trạng thái tâm thanh tịnh tuyệt đối, nghĩa là tâm dập tắt hoàn toàn ngọn lửa tham, sân, si. Người đạt được trạng thái Niết-bàn là người có thái độ sống an nhiên tự tại “thường, lạc, ngã, tịnh” ngay trong vòng xoáy “Vô thường, bất toại nguyện và vô ngã” nơi thế gian này! “Thường, lạc, ngã, tịnh” được xem là bốn đức tánh thù thắng của Niết-bàn. Ý nghĩa của bốn trạng thái này qua lời Phật dạy như sau:

1)  ĐỨC THỨ NHẤT CỦA NIẾT-BÀN LÀ “THƯỜNG”: Sự giác ngộ đạt đến cảnh giới Niết-bàn là sự giác ngộ vĩnh viễn không biến đổi nên gọi là Thường.   Niết-bàn hay Phật tánh hiện hữu tồn tại vĩnh cửu không biến hoại, không thay đổi trong bất cứ thời gian hay không gian nào. Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm “Thánh Hạnh”, Đức Phật giảng về tánh THƯỜNG của Niết-bàn hay Phật tánh như sau:

“… Thiện nam tử! Phật tánh không sanh không diệt, không đến không đi, chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng phải do nhân làm ra, cũng chẳng phải không nhân không tạo tác, không người tạo tác, chẳng phải tướng, chẳng phải không có tướng, chẳng phải có tên, chẳng phải không tên, chẳng phải danh sắc, chẳng dài chẳng ngắn, chẳng phải bị nắm giữ trong ấm, giới, nhập. Vì thế Phật tánh gọi là THƯỜNG . Thiện nam tử! Phật tánh là Như Lai. Như Lai là pháp, pháp tức THƯỜNG”. (**) (hết trích)

            2) ĐỨC THỨ HAI CỦA NIẾT-BÀN LÀ “AN LẠC”: An có nghĩa là tâm tư bình thản an ổn không bị khuấy động bởi những dục vọng, những lo âu, những tính toán hơn thua được mất, hay những nhớ nghĩ tiếc nuối về quá khứ hoặc suy tính  tưởng tượng những ảo vọng tương lai.  Lạc là khả năng vui sống hạnh phúc, vĩnh viễn xa lìa nỗi khổ niềm đau. Người tu đạt tới cảnh giới Niết-bàn thì có hạnh phúc, có an lạc nhưng  hạnh phúc, an lạc của Niết-bàn vượt ra ngoài thế gian, không phải là thứ hạnh phúc chìm đắm trong ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thủy của trần thế!

An Lạc của Niết-bàn là hiện tại tuy sáu căn của cơ thể là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với bất cứ loại pháp trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nào… cũng bình thản tiếp nhận niềm vui bằng trí tuệ giác ngộ, biết chúng là “vô thường, bất toàn, vô ngã” nhưng vẫn duy trì được sự an tịnh và tự do, vẫn luôn an trú trong thế giới tịnh lạc xuất trần, không bị ràng buộc dính mắc thương yêu ghét bỏ hay sợ hãi như người đang sống trong cõi trần tục, đang hưởng hạnh phúc mà lo sợ cái hạnh phúc đang hưởng lúc nào đó sẽ biến mất!

            3) ĐỨC THỨ BA CỦA NIẾT-BÀN LÀ “NGÔ: Ngã đây không phải là chấp Ngã (chấp ngũ uẩn là ta, của ta, tự ngã của ta). Ngã này là ngã tuyệt đối thanh tịnh, là sự tự do, tự tại, không bị nô lệ vào quá khứ, hiện tại hay tương lai. Không nô lệ tức là được tự do, tự do không bị ràng buộc điều gì thì được giải thoát điều đó! Ngã này mới thật là Ngã chủ thể, Ngã thường hằng, Ngã không sinh không diệt, Ngã có chủ quyền, vì Ngã không bị bất cứ sự trói buộc nào của lậu hoặc, kiết sử, tùy miên, tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến.

Từ trước đến nay, học Phật, chúng ta biết toàn bộ giáo pháp của Ngài giảng dạy về sự thật Vô ngã, nhằm mục đích diệt trừ những khái niệm về Ngã ích kỷ, chấp trước đưa tới khổ đau cho con người!

Trong kinh “Đại Bát Niết Bàn”, phẩm “Như Lai Tánh”, khi tôn giả Ca-Diếp nêu thắc mắc về “Ngã”, đức Phật giải thích rằng “Ngã Niết-bàn” là “Phật tánh”, ai cũng có. Nhưng  vì bị vô minh, phiền não che lấp nên chúng sanh không nhận ra được. Đoạn văn đó như sau:

Này thiện nam tử! Ngã tức là nghĩa Như-Lai Tạng. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh tức là nghĩa của Ngã. Nghĩa của Ngã như vậy từ nào tới giờ thường bị vô lượng phiền não che đậy, vì thế nên chúng sanh chẳng nhận thấy được.” (***) (hết trích).

Cũng trong phẩm “Như Lai tánh”, đức Phật thuyết rằng Phật tánh là Ngã. Tánh Ngã này không sanh không diệt, không hư hoại, luôn có mặt, nhưng người thường không thể thấy được, chỉ những bậc đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mới nhận ra: 

“Phật tánh là hùng mãnh, không thể hư hoại, cho nên không có gì có thể phá hoại được. Phật tánh chẳng bao giờ có thể đoạn dứt. Tánh Ngã ấy chính là tạng Như Lai bí mật, không gì có thể làm cho hư hoại tiêu diệt. Dầu không thể phá hoại, nhưng người thường không thể thấy được. Nếu đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mới chứng biết được nó. Vì lẽ ấy, không ai có thể phá hoại được Phật tánh (***) (hết trích)

Kinh cũng cho biết, đức Phật vì muốn giúp cho người đời thoát khỏi quan niệm chấp ngã hư vọng, nên Ngài dạy pháp tu Vô ngã để tâm người đó được thanh tịnh:

“…. Vì độ chúng sanh nên dạy pháp tu Vô ngã. Nhờ tu pháp đó dứt hẳn tâm chấp Ngã, được nhập Niết-bàn. Vì trừ những vọng kiến trong đời nên thị hiện pháp xuất thế gian. Lại chỉ rõ quan niệm chấp ngã của người đời là hư vọng chẳng phải chơn thật, nên dạy pháp tu Vô ngã để được thanh tịnh” (***) (hết trích)

4) ĐỨC THỨ TƯ CỦA NIẾT BÀN LÀ “TỊNH”: Tịnh nghĩa là trong sạch thuần khiết, không bị ô nhiễm, không còn bị lầm lỗi, dù chỉ là một lỗi nhỏ như hạt bụi. Đó là trạng thái vắng lặng, thanh bình nội tâm, với một cảm giác hoàn toàn tự do tự tại. Phật tử chúng ta thường được khuyến khích tu tập giữ gìn ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh. Thân, khẩu, ý là cửa ngỏ gây nên ác nghiệp và cũng là cửa ngỏ tạo nghiệp lành. Khi cả ba thân, khẩu, ý lúc nào cũng được thanh tịnh thì hành giả luôn cảm nhận được sự an lành, hạnh phúc.

Tóm lại “thường, lạc, ngã, tịnh” là bốn đức của Niết-bàn. Thường là thường hằng, không thay đổi, không sinh diệt. Lạc là không yêu ghét, không bận lòng trong bất cứ tình huống nào, luôn thảnh thơi với niềm vui thoát tục. Ngã là tự do, tự tại, luôn bình thản không bị trói buộc bởi bất kỳ pháp nào, dù là hữu vi hay vô vi. Tịnh là trong sạch, sáng suốt, thanh tịnh hóa toàn bộ vô minh dục vọng, dù hành giả đang sống giữa đời thế tục. Bốn đức tính này tương quan liên hệ với nhau. Trong thường có lạc, có ngã, có tịnh. Trong ngã có thường, có lạc, có tịnh. Trong tịnh có thường, có lạc, có ngã tự do tự tại. Trong lạc cũng ẩn chứa ba đặc tính kia!

                                                     III. GÚT LẠI

            Theo Phật Giáo Đại Thừa : “Thường, lạc, ngã, tịnh” là bốn thuộc tính của Niết-bàn không thay đổi, không sinh diệt, là trạng thái thanh tịnh nhất, cao quý nhất,  là mục tiêu của người tu đạo Phật. Muốn chứng ngộ cảnh giới này, hành giả không thể không tu tập thiền.  Vậy thiền là gì? 

Thiền, tiếng Pali là “bhavana”. Danh từ này có nghĩa là “phương pháp, tu dưỡng, trau dồi phát triển…”.  Đạo Phật có hai phương thức chính trong việc thực hành thiền. Đó là thiền Chỉ (Samatha bhavana) và thiền Quán (Anupassana bhavana). Thiền Chỉ là cách luyện tập giúp tâm dừng lại (không suy nghĩ, không nói thầm trong não). Nhờ vậy tâm được yên lặng thanh thản, nhưng trạng thái tâm yên lặng thanh thản này không được vững chắc, nên thiền Chỉ là bước đầu, là nền tảng đưa đến thiền Định (Samadhi bhavana). Hành giả thành tựu các bậc thiền Định (Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền) sẽ lần lượt đạt được trạng thái tĩnh lặng, thanh thản, hạnh phúc từ sơ cơ đến sâu sắc ngay trong hiện tại, nhất là khi đã hoàn toàn loại ra khỏi tâm trí những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến; nhằm nuôi dưỡng phát triển tâm từ, bi, hỷ, xả v.v…

Thiền Quán (Anupassana bhavana): Nhìn liên tục bằng tuệ tri nhận ra bản thể của vạn pháp là “Vô thường, Khổ (xung đột, bất toại nguyện), Vô ngã (không thực chất tính), gọi là Tam pháp ấn. Kết quả: Cô lập lậu hoặc, tập khí, kiết sử, tùy miên. Từ thiền Quán tiến thêm một bước nữa là thiền Huệ hay Tuệ.

Thiền Huệ hay thiền Tuệ: Là cách thực hành hướng đến (như lý tác ý) sự phát triển của trí tuệ và thông suốt về tâm linh. Tuệ có hai mức độ:

Một là Vipassana bhavana, ngày nay người ta gọi là Tuệ Minh Sát. Tuệ Minh Sát là pháp tu tập quan sát, thấy, biết “cái đang là” của pháp xuất hiện ngay trong hiện tại, dần nhận ra sự luân hồi sanh diệt của mọi hiện tượng thế gian. Từ đó không còn chấp ngã, chấp pháp nữa.

Mức cao hơn là tuệ tự phát, tức tuệ tâm linh, còn gọi là (tuệ) Bát Nhã,  tiếng Pali là Panna, tiếng Sanskrit là Prajna. Hành giả phải tọa thiền vào định sâu, mới bật ra trí huệ tâm linh từ sơ cơ đến vô lượng như: Trực giác, siêu trực giác, sáng kiến mới lạ, biện tài vô ngại, tứ vô lượng tâm v.v…

Thiền Chỉ (nền tảng của Định), thiền Quán (nền tảng của Tuệ), là hai phương pháp thực hành khác nhau, tuy có chức năng riêng biệt, nhưng cả hai liên hệ hỗ trợ cho nhau trong suốt quá trình tu dưỡng tâm linh phát huy trí tuệ của thiền giả.

Nhìn chung, công dụng của thiền Định giúp tâm giải thoát (tâm thanh tịnh, trong sáng). Còn thiền Quán giúp tuệ giải thoát (tức giải thoát những cái biết mê lầm trói buộc, trả lại cái biết như thật, như vậy). Khi tâm và tuệ hoàn toàn giải thoát thì hành giả đạt được cảnh giới “thường, lạc, ngã, tịnh”.

Trong một bài viết hướng dẫn thiền sinh tu tập để đạt được trạng thái tâm yên lặng, cố Thiền sư Thông Triệt giảng về “thường, lạc, ngã, tịnh” như sau:: “Thường là thường hằng trong không dục vọng. Lạc là không còn chạy khắp Tây, Đông, tìm vui sướng xác thân nhục dục. Ngã là luôn luôn bình thản trong bốn oai nghi, sống thanh thản trong không si mê ái dục. Tịnh là tịnh hóa toàn bộ dục vọng…” (****)

Tóm lại, đạt được bốn đức tính “thường, lạc, ngã, tịnh”,  các vị Bồ-tát với lòng đại từ đại bi, với tâm nguyện tự giác, giác tha.  Các Ngài ấy ứng thân một cách vô ngại không ngăn mé vào đời sống ô nhiễm khổ đau của nhân thế, thực hành Bồ-tát đạo hóa độ chúng sanh. Công tác tự nguyện này thật là nhiêu khê, không dễ dàng chút nào, bởi thế giới Ta Bà này là thế giới của Nhân quả, thế giới của trả nghiệp, vui có, buồn có, tử tế có, xằng bậy có, nên chúng sanh có người dễ dạy, cũng có người thật vô minh cứng đầu. Nhưng dù Bồ-tát lội ngược dòng nước xoáy, đi dưới trời mưa to giông bảo như thế nào đi nữa, thì các Ngài vẫn cảm thấy trong lòng có niềm vui thoát tục, đó là thường an lạc, thanh tịnh, tự do tự tại, an trú trong “Hữu Dư Y Niết-bàn”.

                                                       THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(29/5/2023, Thiền thất CHÂN TÂM, Richmond, Texas)

Tài liệu:

(*) Kinh Đại Bát Niết Bàn, bản Hán Tạng, do Cố Đại lão HT. Thích Trí Tịnh chuyển dịch sang Việt ngữ. (**) Phẩm Thánh Hạnh. (***) Phẩm Như Lai Tánh.

 (****) “Thường Lạc Ngã Tịnh” (Thơ Thông Triệt) –  Trang nhà Tánh Không .

Pháp Học “Tùy Duyên Thuận Pháp” ?

Thích Nữ Hằng Như

                                                                I. DẪN NHẬP

Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,  có khi lại nghe câu “… cứ để cho các pháp tự vận hành rồi đâu cũng vào đấy! ” hoặc “Tùy duyên thuận pháp”. Những câu nói này không phải là những câu nói cho qua chuyện, khi mình gặp một vấn đề nan giải nào đó xảy ra trong đời sống hằng ngày, mà thực ra đó là những câu nói liên quan đến cách sống của những người con Phật. Hôm nay, chúng tôi chọn cụm từ “Tùy Duyên Thuận Pháp” để chia sẻ ý nghĩa cùng nói lên sự lợi ích trong việc tu tập pháp này. Các cụm từ vừa nêu trên về mặt ý nghĩa cũng gần giống nhau. Hiểu một, sẽ hiểu được luôn cả ba không khó!

“Tùy duyên thuận pháp” gồm bốn chữ nhưng có hai vế: Vế thứ nhất là “Tùy duyên”, vế thứ nhì là “Thuận pháp”. Duyên là “điều kiện” là “pháp” bên ngoài tác động vào hành giả. Còn thuận pháp là phản ứng chấp nhận pháp, khi hành giả  giáp mặt với bất cứ loại duyên nào xảy đến với mình!

                                               II. TÙY DUYÊN LÀ GÌ?

– Tùy:  Có nghĩa là căn cứ vào, phụ thuộc vào, dựa vào. (Thí dụ tùy cơ ứng biến, tùy theo tình hình mà đối phó hành động, dựa theo tình thế mà làm cho phù hợp)

– Duyên: Là một trong những thuật ngữ quan trọng trong giáo lý nhà Phật. Duyên thường đi đôi với chữ Nhân gọi là “Nhân Duyên”. Nhân duyên này có nghĩa là điều kiện hay yếu tố thành lập một sự kiện, một pháp nào đó!  

Thí dụ như bài kinh “Vô Ngã Tướng” dạy con người do năm uẩn lập thành. Năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Mỗi uẩn này là một điều kiện, một yếu tố gọi là duyên. Hoặc trong bài “Mười Hai Nhân Duyên” (Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Già Chết). Mười hai nhân duyên là 12 mắt xích dính liền tạo thành một vòng tròn không lối thoát gọi là bánh xe luân hồi. Bắt đầu là Vô minh duyên Hành. Hành duyên Thức. Thức duyên Danh Sắc v.v… Duyên ở đây có nghĩa là nguyên nhân sinh khởi. Chúng ta có thể hiểu rằng Vô Minh là nguyên nhân khởi sinh Hành. Hành là nguyên nhân khởi sinh  Thức v.v…

Duyên cũng đứng giữa hai từ Nhân và Quả. Trong cụm từ “Nhân-Duyên-Quả”, Nhân là yếu tố chính, là những gì có năng lực sinh khởi. Duyên là những tác nhân phụ, xem như là những điều kiện, là chất xúc tác, giúp cho Nhân chính phát sanh. Khi Nhân và Duyên kết hợp đầy đủ, chín muồi, thì Quả xuất hiện. Tùy theo tính cách của Nghiệp Nhân mà trổ Quả tốt lành, an lạc, hạnh phúc, hay Quả xấu ác, phiền não, khổ đau.

Ví dụ: Hạt mầm của cây quýt, cây cam hay cây ổi là “Nhân chính”, các điều kiện liên quan như đất, nước, ánh nắng mặt trời, phân bón cùng sự chăm sóc của con người… gọi chung là  “Nhân phụ”, thuật ngữ nhà Phật gọi là “Duyên”.  Khi nhân-duyên chín muồi, hạt mầm mọc thành thân cây. Thân cây cao lớn đủ sức tặng cho đời những trái cây tốt tươi đó là Quả.

Như vậy Duyên có nghĩa chung là điều kiện hay nhân tố hỗ tương cho sự sống.

 – Tùy duyên: Là dựa vào sự kiện (duyên) xảy ra, mà xử lý mọi chuyện thích hợp với hoàn cảnh do duyên tạo ra.

Thí dụ:  Như hôm nay chúng ta đang có buổi sinh hoạt. Tùy vào sự kiện thời gian cho phép dài hay ngắn, trình độ lớp học ra sao?  Mình sẽ tùy vào sự kiện, hoàn cảnh là duyên cho phép, mà chương trình sinh hoạt dài hay ngắn, bài giảng cao hay thấp.  

Thí dụ khác: Hôm nay ta không thấy khỏe trong người, thì tùy vào sức khỏe mà không làm việc quá sức, hoặc nếu cần thì nghỉ ngơi để khi khỏe lại sẽ tiếp tục công việc. Nghỉ ngơi hay làm việc không quá sức là hành động hợp lý khi hoàn cảnh sức khỏe (duyên) không cho phép. Đó là mình “tùy duyên” mà hành động hợp lý.

Hoặc:  Trước kia, hằng tuần đạo tràng chúng ta sinh hoạt tại thiền đường. Thời gian qua, vì tình trạng bệnh dịch lây lan, khiến chúng ta không thể sinh hoạt chung tại thiền đường. Sinh hoạt đạo tràng là Nhân. Bệnh dịch lan tràn là “duyên”. Chúng ta không đến đạo tràng nữa, mà sinh hoạt qua hệ thống Google zoom chẳng hạn.  Đó là đạo tràng đã “tùy duyên” mà có hành động thích hợp với hoàn cảnh.

Tóm lại “tùy duyên” là gặp hoàn cảnh nào thì “tùy theo hoàn cảnh” đó mà xử lý thích hợp.  Ở trong “trạng thái nào” thì “tùy vào trạng thái đó” mà  ứng biến, sống sao cho phù hợp, thì đó là “tùy duyên”.

Qua định nghĩa trên, chúng ta có thể rút ra bài học về “Tùy duyên”. Không phải nói tùy duyên là chúng ta phó mặc, buông xuôi tất cả mọi sự việc xảy ra trong đời sống của chúng ta. Tốt cũng được, xấu cũng được. Giỏi cũng được, dở cũng được. Ta không quan tâm! Tùy duyên không phải là buông thả cuộc đời mặc cho dòng nước cuốn trôi đời mình đi đâu thì đi, mặc kệ! Tinh thần tùy duyên trong nhà Phật không phải như thế! Là người Phật tử, chúng ta nên biết tùy duyên là cơ hội để chúng ta thực tập giữ tâm bình tỉnh, xem nhẹ được-mất, hơn-thua, cao sang-nghèo hèn, danh giá-khổ nhục. Nhờ vậy mà tâm chúng ta được bình ổn trước những cơn thịnh nộ, hay dịu dàng từ những trận gió thế gian bất ngờ đổ ập tới! Tùy duyên như thế mới là tùy duyên một cách sáng suốt, có trí tuệ, của người học Phật!

                                                III. THUẬN PHÁP LÀ GÌ ?

– Thuận: Có nghĩa là bằng lòng, chấp nhận, đồng tình, xuôi theo, noi theo, thích hợp, vừa lòng, thuận ý, hài hòa. Khác với thuận là nghịch hay ngược.

– Pháp: Dhamma (Pali), Dharma (Sanskrit). Tùy theo ngữ cảnh mà Pháp mang ý nghĩa khác nhau.

Pháp là tất cả mọi sự vật cụ thể hay trừu tượng trên thế gian như: Con người, con vật, nhà cửa, xe cộ, thời gian giờ giấc, không gian bốn mùa, nóng, lạnh, mưa gió… hay các sự kiện, tập quán, luật lệ, thói quen, phép cư xử, bổn phận, nghĩa vụ, việc thiện, việc ác, đức hạnh hay các đối tượng của tâm ý.

Pháp (viết hoa) là những lời dạy của đức Phật bao gồm Kinh-Luật-Luận. Nếu hữu hình, hữu tướng gọi là sắc pháp. Vô hình, trừu tượng gọi là tâm pháp. Có thể tánh (kết hợp giữa hai giống đực cái) gọi là hữu pháp. Không thể tánh gọi là vô pháp. Tất cả bốn pháp này gọi chung là Pháp giới. (*)

– Thuận pháp: Có nghĩa là pháp lành hay pháp ác tác động đến mình, mình chấp nhận, thuận theo. Không phải thuận theo trong mê muội, mà có “nhận thức trung thực, đúng đắn về pháp này”, đồng thời có thái độ ứng xử thích hợp.  Đó gọi là thuận pháp. Ngược lại, nếu mê man hưởng thụ hay chán ghét phản kháng bằng ý nghĩ, hành động chiều theo bản ngã mình thì đó là “bất thuận pháp”.

                                     IV.  SỐNG TÙY DUYÊN THUẬN PHÁP

Về phương diện đời sống của con người, ai cũng biết cuộc đời luôn có hai mặt: Thành công-thất bại, hạnh phúc-đau khổ, đúng-sai, đẹp-xấu, yêu thích-ghét bỏ v.v… Tùy lúc, tùy thời khi một trong các duyên này xuất hiện tác động vào đời sống của mỗi người, chúng ta không thể chọn lựa mặt này mà chối bỏ mặt kia. Nhất là khi duyên tới từ phía nghiệp quả.

Duyên đến như thế nào mình chấp nhận như thế đó! Duyên tốt thì mình trân trọng. Duyên xấu thì mình phải tự hiểu đó là do lỗi lầm của mình gây ra trước kia, cần phải điều chỉnh thái độ sống sao cho tốt hơn!

Trường hợp, duyên thành công trong nghề nghiệp, duyên giàu có dồi dào tiền bạc, duyên con cái học hành đổ đạt, duyên gia đình hạnh phúc v.v… xuất hiện trong cuộc đời chúng ta, xin đừng quên lời Phật dạy “các pháp hữu vi đều vô thường”. Trong thời gian hưởng thụ do phước đãi, nếu không lo bồi dưỡng thêm phước mới. Đến khi phước củ xài hết, mà nhân mới là nhân bất thiện, thì một ngày nào đó mình phải chịu trả quả xấu tương đương hoặc nhiều hơn mà thôi! 

Còn như hiện tại bị duyên trái ngang, đổ vỡ, phiền muộn, đau khổ. Gặp duyên này thì đừng quá thất vọng, bi quan, chán nản. Đây có thể là do nhân xấu mình đã tạo trước kia, bây giờ phải gánh chịu. Có phản kháng cũng không ích lợi gì. Nên thực hành pháp tu “Tinh tấn và Nhẫn nại”. Tinh tấn ở đây là siêng năng làm lành lánh dữ. Nhẫn nại chịu đựng để vượt qua thời gian khó khăn. Thời gian chịu khổ dài hay ngắn là do nghiệp mình gây ra nặng hay nhẹ mà thôi!

Nói chung “Tùy duyên thuận pháp”  không có nghĩa là mình buông xuôi bất kể mọi chuyện.  Là người học Phật, chúng ta nên chấp nhận duyên xấu hay duyên tốt đến với mình bằng tinh thần tích cực.  Chúng ta hiểu rằng con người sinh ra và sống trong Nhân Quả thì khó mà trốn tránh được hậu quả những gì mình đã gây ra. Thay vì chán nản buồn khổ,  khiến cho cuộc sống mỗi lúc, mỗi thêm rối ren đen tối, thì chúng ta có thể chuyển nghiệp xấu thành tốt bằng cách nghĩ lành, làm lành, tạo nhân tốt cho mai sau. Hoặc khi duyên lành tới, trong lúc hưởng thụ cũng đừng quên các pháp vốn “vô thường, khổ, vô ngã” mà sống sao cho tốt với chính mình, với mọi người và mọi loài xung quanh.

Ngoài ra, chúng ta cũng cần hiểu rằng “Tùy duyên” là các pháp phụ thuộc bên ngoài. Còn “Thuận pháp” là Nhân. Nhân mới là chủ yếu bên trong tâm của chúng ta. Khi duyên xuất hiện tác động đến chúng ta, điều quan trọng là phản ứng của tâm lúc ấy ra sao? Chúng ta có bình tỉnh thấy biết như thật về duyên đó hay là chúng ta mê man hưởng thụ? Nếu mê man thích thú hưởng thụ, thì bấy giờ tâm ta đã khởi “Nhân tham”. Còn như bực bội khó chịu là chúng ta đang khởi “Nhân sân”.  Tâm tham lam, sân hận, là hai thứ lậu hoặc, ô nhiễm mang sự lo âu, sợ hãi, khổ đau đến cho người cưu mang nó!

Tóm lại, người gặp hoàn cảnh khó khăn trở ngại, hoặc dễ dàng suông sẻ, tâm người đó bình tỉnh, không bị dao động, thì đó là người có tu tập, có trí tuệ vậy!

           V. LÀM SAO ĐỂ “SỐNG TÙY DUYÊN THUẬN PHÁP”?

Người “Sống Tùy Duyên Thuận Pháp” là người có tu tập theo lời Phật dạy. Một trong những pháp người đó thực hành là giữ chánh niệm trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, hay khi làm bất cứ điều gì, cũng làm trong chánh niệm.

Chúng ta có thể tu tập theo Pháp Như Thật (Yathà bhùta). (**) Pháp Như Thật là phương thức thực hành để có cái Biết phù hợp với sự thực nhằm chuyển hóa tâm lao xao, loạn động, chủ quan sang tĩnh lặng, thanh thản, khách quan. Pháp này thuộc về thiền Huệ. Tuy lậu hoặc, tập khí, kiết sử, tùy miên vẫn còn nhưng chúng bị cô lập không khởi lên thành tạp niệm (vọng tưởng).

Khi thực tập pháp này, hành giả phải xử dụng giác quan và phải có đối tượng. Nếu không xử dụng giác quan tiếp xúc ngay với đối tượng (tức tiếp xúc duyên) thì cái Biết sẽ rơi vào Tâm ba thời bất khả đắc là: Quá khứ (ý căn), hiện tại (ý thức), vị lai (trí năng), và vì thế hành giả đang sống trong cái tâm ảo tưởng mất chánh niệm.

Trong kinh “Nhất Dạ Hiền Giả” đức Phật dặn dò: “Quá khứ không truy tìm, Tương lai không ước vọng, Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến, Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ Quán chính là đây…”. Kinh Kim Cang cũng dạy: “Quá khứ, hiện tại, tương lai bất khả đắc. Chỉ có bây giờ và ở đây”. Nội dung hai đoạn kinh này, không ngoài mục đích nhắc nhở người tu tập ở trong hoàn cảnh nào cũng không được thất niệm!

Thực hành Pháp Như Thật thường xuyên giúp hành giả an trú trong chánh niệm, tức có cái Biết rõ ràng, trong sáng, khách quan trên đối tượng (pháp hay duyên). Hành giả không có phản ứng thuận (thích) hay nghịch (không thích) đối với pháp, mà chỉ thấy cái đang là của pháp, tức pháp như thế nào thấy biết như thế ấy, nên tâm hành giả được yên lặng, không tạo thêm “Nhân mới” khi tiếp xúc với thiện duyên hay ác duyên.

 Nhờ công phu tu tập hành trì qua pháp Quán Như Thật, mà hành giả tuệ tri được bản chất “vô thường, khổ, vô ngã” của vạn duyên, sẽ không dễ dàng bị quyến rủ bởi vật chất (sắc pháp), khi duyên tốt đến thăm, và vượt qua nỗi ưu sầu, phiền não (tâm pháp), khi bị duyên xấu tấn công. Từ đó hành giả giữ được sự cân bằng trong đời sống hằng ngày để có thể tiếp tục tiến xa hơn trên con đường tu tập tâm linh hướng đến giải thoát giác ngộ./.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Thích Nữ Hằng Như

(Thiền thất CHÂN TÂM 14/5/2023)

Tài liệu:

(*) Phật Quang Đại Tự Điển, Tự điển Phật học Tuệ Quang

(**) Xem thêm: Sách “Trên Đường Về Nhà”, Chương: Thiền Huệ – Pháp Như Thật”. TNHN,  Ananda Viet Foundation xuất bản. Amazon tổng phát hành.

Phật Giảng cho Cư Sĩ về “Năm Điều Nguy Hiểm Khi Phạm Giới

Thích Nữ Hằng Như

I. DẪN NHẬP

Từ khi con người bắt đầu quy tụ sống thành nhóm, thành đoàn, và sau này phát triển đông đảo thành cộng đồng, xã hội, quốc gia, người ta đã biết tổ chức phân quyền, đưa ra những nguyên tắc luật lệ chung để mọi người dân sống trong cộng đồng quốc gia phải tuân theo. Những ai phạm tội phá rối trị an sẽ bị đem ra xét xử và trừng phạt theo nội quy luật lệ của quốc gia nơi họ cư ngụ. Có như thế thì mọi sinh hoạt trong cộng đồng xã hội mới giữ được trật tự, đời sống cá nhân mới được bảo đảm an toàn.

Ngoài đời là thế, trong nhà Phật cũng có nội quy, giới luật cho các Phật tử tại gia cũng như xuất gia. Giới luật trong nhà Phật cũng nhằm mục đích ngăn cản không để người thọ giới phạm lỗi, nhưng có điều trong nhà Phật không giống như ngoài đời là sẽ xử lý trừng phạt bắt nhốt người phạm lỗi, mà chỉ nêu lên những nguy hại cho chính bản thân của người làm ác mà thôi!

II. NĂM GIỚI CĂN BẢN CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ

            Để giúp người Phật tử có đời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản. Năm giới này chính là hàng rào ngăn cản không cho người Phật tử phạm lỗi lầm đưa đến khổ đau. Năm giới đó được kể như sau:

1) Không sát sanh: Là loài người hay loài thú, loài nào cũng do cha mẹ sinh ra, có anh em, có vợ con, có dòng họ. Con người sống nương tựa, đùm bọc, yêu thương lẫn nhau như thế nào, thì con vật cũng có cha mẹ anh em yêu thương nhau như thế ấy! Người ta ham sống sợ chết, con vật cũng ham sống sợ chết. Ở ngoài đời, người nào mang tội giết người cướp của, là bị bắt bỏ tù chung thân,  có khi bị xử tử. Đó là nói về con người. Còn về thú vật, thì ngoài những con thú cưng như chó, mèo, được chủ nuôi nấng chăm sóc cẩn thận. Ai mà hành hạ thú vật một cách vô lý, sẽ bị thưa kiện bắt bớ phạt tù. Ngoài những con vật được cưng yêu kể trên cũng có những con vật vô phước như heo, bò, gà, vịt… người ta nuôi từng đàn để rồi giết nó lấy thịt bán. Trên thế giới này, mỗi ngày không biết bao nhiêu con vật bị chết oan bởi nhu cầu thích ăn thịt thú vật của con người.  Là Phật tử, giới thứ nhất chúng ta phải giữ, đó là giới không sát sanh. Không những không sát sanh, mà người Phật tử có lòng từ bi thường hay có hành động phóng sanh. Phóng sanh không phải chỉ làm phước trả tự do cho cá, cua, rùa, ốc, ếch, nhái, chim chốc, gà, vịt… sắp hay sẽ bị giết chết, mà phóng sanh còn bao hàm cả việc giúp đỡ người hoạn nạn đói khát không nhà không cửa sống lạnh lẻo ngoài trời đông giá tuyết, để họ có cuộc sống an toàn hơn, hay cứu giúp những con vật thoát chết khi gặp nạn  v.v…

2) Không trộm cướp: Của cải có được là do sức lao động làm việc khổ cực, phải nói là đổ mồ hôi sôi con mắt, nên người ta quý đồng tiền kiếm được là lẽ dĩ nhiên. Ngay cả bản thân mình cũng vậy! Mình vui mừng cầm trong tay số tiền hợp pháp do chính mình kiếm được để nuôi gia đình, tự dưng bị người khác cướp mất, thử hỏi mình có tức giận, có đau khổ hay không? Cá nhân mình không muốn người ta lấy trộm tiền bạc của mình, thì mình cũng không nên lấy của không cho từ người khác. Đây là giới thứ hai của người Phật tử phải giữ. Không trộm lấy tài sản tiền bạc của người khác, mà người Phật tử chân chánh còn tu hạnh tùy hỷ bố thí. Hạnh bố thí giúp mình buông bớt lòng tham lam, biết sống thiểu dục tri túc.

3) Không tà dâm: Chuyện tình cảm thân mật giữa vợ chồng là sợi dây gắn bó thiêng liêng. Người ta bảo vệ hạnh phúc gia đình bằng lòng thủy chung của đôi bên. Không ai muốn có kẻ thứ ba xen vào phá rối hạnh phúc gia đình của mình. Là người Phật tử chính chuyên phải tuân thủ giới thứ ba là không tà dâm với chính bản thân mình và không tà hạnh với bất cứ người nào khác.

4) Không nói dối: Nói dối, nói lời hung dữ, nói lời chia rẻ, nói lời kém thanh tao sẽ khiến cho mình mất uy tín, mất lòng tin của mọi người xung quanh. Và vì thế không nói dối là giới thứ tư người Phật tử cần phải giữ. Người Phật tử tri thức sẽ chỉ dùng lời nói chân thật đúng đắn dịu dàng, nói những gì cần nói. Tốt nhất vẫn là dùng lời nói chia sẻ Phật pháp để cùng nhau tu học là điều cần thiết.

5) Không uống rượu: Rượu, hay chất ghiền nghiện sì-ke, ma-túy là những chất say nghiện làm tâm trí con người mê muội đưa đến những hành động không kiểm soát, hại mình hại người, rất nguy hiểm. Muốn tinh thần được minh mẩn, giới thứ năm là giới không được uống rượu, người Phật tử cần phải giữ.

III. NĂM ĐIỀU NGUY HIỂM KHI NGƯỜI CƯ SĨ PHẠM GIỚI

Kinh Tiểu Bộ, Tập I, Chương Tám, Phẩm Pãtaligã ghi lại bài kinh đức Thế Tôn giảng cho các nam cư sĩ ở làng Pãtali về việc nguy hiểm của những người có hành động bất thiện vì phạm giới như sau:

“Như vầy tôi nghe;

Một thời, Thế Tôn đang đi bộ hành giữa dân chúng Magadha cùng với đại chúng Tỷ-kheo và đã đến làng Pãtali. Tại đây, các nam cư sĩ ở làng Pãtali đã đến đảnh lễ Thế Tôn và thỉnh cầu Ngài đến giảng đường ban pháp. Thế Tôn đồng ý và đến giảng đường của họ thuyết giảng về “Năm Điều Nguy Hiểm Của Người Cư Sĩ Tại Gia” nguyên văn như sau:

“Này các Gia Chủ, có năm điều nguy hiểm này cho người ác giới, người phạm giới. Thế nào là năm? Ở đây, này các Gia Chủ, người ác giới phạm giới, do nhân duyên phóng dật, nên hao mất tài sản lớn; đây là nguy hiểm thứ nhất cho người ác giới, người phạm giới. Lại nữa này các Gia Chủ, người ác giới, người phạm giới, tiếng xấu đồn xa; đây là nguy hiểm thứ hai cho người ác giới, cho người phạm giới. Lại nữa này các Gia Chủ, người ác giới, người phạm giới, khi đến hội chúng nào, hoặc là hội chúng Sát-đế-lỵ, hoặc là hội chúng Bà-La-Môn, hoặc là hội chúng gia chủ, hoặc là hội chúng Sa-môn, vị ấy đến với sự sợ hãi, với sự ngỡ ngàng; đây là nguy hiểm thứ ba cho người ác giới, cho người phạm giới. Lại nữa này các Gia Chủ, người ác giới, phạm giới, khi chết bị si ám; đây là nguy hiểm thứ tư cho người ác giới, cho người phạm giới. Lại nữa này các Gia chủ, người ác giới, người phạm giới, khi thân hoại mạng chung bị sanh vào ác xứ, ác thú, đọa xứ, địa ngục; đây là nguy hiểm thứ năm của người ác giới, của người phạm giới. Này các Gia Chủ, có năm điều nguy hiểm này cho người ác giới, cho người phạm giới” (hết trích)

IV. TÌM HIỂU Ý KINH

            Trong thời pháp này, đức Thế Tôn nêu lên năm điều nguy hiểm cho các cư sĩ tại gia vi phạm giới đức, làm những điều bất thiện tức hành giới ác, sẽ gánh lấy những điều không hay cho chính bản thân mình. Ở đây đức Thế Tôn nêu lên năm điều nguy hiểm đó là:

1) Hao mất tài sản lớn: Do nhân duyên phóng dật, người phạm giới tung tiền bạc tài sản phục vụ cho bản ngã trôi lăn theo ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy… nên tài sản dù có nhiều bao nhiêu, thì rất sớm sẽ trắng tay nợ nần khổ sở. Ở một ý nghĩa sâu sắc hơn thì tài sản lớn nhất của người Phật tử chính là Pháp bảo, là lời Phật dạy. Do phóng dật, không còn ghi nhớ lời Phật dạy, tín tâm không còn, thực hành điều xấu ác hại mình hại người không một chút tàm quý. Đây là nguy hiểm thứ nhất cho người ác giới, phạm giới.   

2) Tiếng xấu đồn xa: Thành ngữ có câu “Hữu xạ tự nhiên hương” ám chỉ người tài giỏi, ăn ở hiền lành, tốt bụng, làm những việc lợi ích cho mọi người không cần khoe khoang, mà danh thơm tiếng tốt vẫn được người ta  ca ngợi lan truyền.  Đối với một người hủy giới làm những điều xấu ác, gây bất lợi trong xã hội, thì “tiếng xấu” cũng bị lan truyền khắp nơi, qua cửa miệng của nhiều người, xa cách mấy cũng có người biết, không làm sao che đậy được. Đây là nguy hiểm thứ hai của người phạm giới.

3) Tâm trạng sợ hãi: Người phạm giới, làm những điều bất thiện như ăn cắp, ăn trộm, hoặc liên hệ bất chính trong vấn đề tà hạnh, hoặc thường nói dối gây chia rẻ trong hội đoàn, nên khi đến tham dự những buổi họp mặt của đạo tràng hay hội đoàn thì cảm thấy ngần ngại, nếu không nói là trong lòng lúc nào cũng sợ hãi. Họ sợ phải đối đầu giáp mặt với những người biết chuyện xấu của mình! Đây là nguy hiểm thứ ba của những người ác giới, phạm giới.

4) Khi chết bị si ám: Người phạm giới, sa vào cuộc sống ăn chơi, bệ rạc,  sống buông lung xả láng, vướng vào đam mê cờ bạc, rượu chè, trai gái…  Hậu quả khó tránh khỏi bệnh hoạn hành hạ thân thể đau đớn, khổ sở. Cuối đời chết trong tối tăm si ám. Đây là nguy hiểm thứ tư của người phạm giới, hành ác.  

5) Bị đọa vào một trong ba đường dữ: Người phạm giới, vì đã tạo quá nhiều nghiệp ác, sau khi thân hoại mạng chung, tùy nghiệp tương ưng mà thần thức bị đọa vào một trong ba đường dữ như súc sanh, ngạ quỷ hay địa ngục. Đây là nguy hiểm thứ năm người làm ác phải nhận hậu quả.

Sau khi giảng năm điều nguy hiểm của người phạm giới, trong kinh có ghi, đức Thế Tôn cũng nêu lên năm điều lợi ích cho những người cư sĩ đầy đủ giới hạnh. Những ai giữ đầy đủ giới, sống đời thanh tao, đạo đức, chuyên làm lành tránh ác, đương nhiên kết quả sẽ trái ngược với năm điều nguy hại nêu trên. Khi thân hoại mạng chung người này được sanh về thiện thú, thiên giới hay trở lại làm người hưởng phước.

Được biết, buổi thuyết giảng của đức Thế Tôn chấm dứt vào đêm khuya. Các cư sĩ vô cùng phấn khởi sau khi nghe pháp thoại của Ngài, và họ đã hoan hỷ  tín thọ lời Thế Tôndạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

V. KẾT LUẬN

Cư sĩ tại gia là những người đã quy y Tam Bảo và thọ nhận năm giới. Họ là những người đặt niềm tin sâu sắc vào Tam Bảo. Họ là những người cha, người mẹ, người chồng, người vợ, người con tốt trong gia đình và ngoài xã hội. Nhờ nghiêm trì năm giới, làm việc lành tránh việc ác, giữ tâm ý trong sạch nên họ có đời sống an lạc, hạnh phúc vì không phạm tội. Do không phạm tội nên họ sống bình thản, an nhiên, vui vẻ, không ngượng ngùng sợ hãi trốn tránh bất cứ một ai. Đối với đời sống tâm linh, họ giữ gìn ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, họ tu tập thu thúc lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), không để lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) lôi kéo vào con đường trụy lạc khởi sanh tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…  Những cư sĩ tuân giữ giới luật sống đời đạo đức này, khi thân hoại mạng chung tuy chưa thể nhập Niết-bàn, nhưng quyết sẽ được sanh vào thiện thú, thiên giới hay trở lại cõi người.

Những ai hủy phạm giới pháp mà lòng không biết tàm quý, không biết ăn năn, hối hận, không biết sám hối, không chịu từ bỏ tật xấu ác quay về với con đường thiện lương đạo đức, thì hiện tại dù họ đang sống trên đời, nhưng sống trong thống khổ, vì phải chịu trả giá những tội lỗi của họ gây ra, thí dụ như bị bắt bớ tù tội, hay bị chủ nợ tìm kiếm đe dọa, hoặc bị người đời xa lánh khinh bỉ và vì thế họ luôn sống trong lo âu sợ hãi… chứ không chờ đến khi chết mới chịu cảnh si ám, và bị đọa vào ác xứ, ác thú, đọa xứ hay địa ngục khi thân hoại mạng chung như lời báo trước của đức Thế Tôn.

Tóm lại, qua bài pháp thoại của đức Thế Tôn, giảng cho các cư sĩ thời Phật cách nay hơn hai ngàn sáu trăm năm, chúng ta rút được bài học quan trọng, đó là muốn đi trên con đường tâm linh liễu thoát sinh tử, hay nhắm mắt đi theo con đường đọa lạc trầm luân, đều tùy thuộc vào tâm và hành nghiệp của chúng ta.

Là người Phật tử tại gia, muốn giữ vững huệ mạng, muốn tu học theo Phật, hầu vượt qua dòng sông sinh tử đến bờ bên kia. Điều kiện ắt có và đủ là chúng ta phải luôn lấy Chánh tín làm gốc, phải bám Giới làm thuyền, rồi mới tới Định, Huệ. Nếu chúng ta không quyết tâm giữ chặt khoang thuyền tức không giữ chặt Giới pháp, thì làm sao tránh được những trận bảo to, những cơn sóng lớn… sẵn sàng hất đẩy chúng ta ra khỏi mạn thuyền và nhận chìm vào biển sâu ô nhiễm của trầm luân lậu hoặc, của sinh tử, tử sinh… nói chi đến vấn đề giác ngộ giải thoát xa xôi…

                               Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

                                           THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

                              Thiền Viện Chân Như, Navasota, Texas.

                                    ( An Cư Kiết Xuân, 12/3/2023)

Tam Vô Lậu Học Là Gì ?

Thích Nữ Hằng Như

I. DẪN NHẬP

Tam Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật. Lậu có nghĩa là những chất nhơ bẩn, ô uế, tượng trưng sự phiền não, khổ đau xâm chiếm tâm người chưa biết tu tập. Ngược lại, Vô lậu là tâm trong lành, sáng suốt, không bị phiền não trói buộc. Lậu cũng có nghĩa khác là rơi rớt, lưu lại, sót lại. Vô lậu thì không. Như vậy Vô Lậu Học là môn học giúp hành giả được tự do tự tại, đoạn tận mọi phiền não khổ đau, không còn rơi rớt trong luân hồi sanh tử.

Tam Vô Lậu Học phát xuất từ bài kinh đầu tiên Đức Phật giảng dạy cho năm anh em tôn giả A-Nhã Kiều-Trần-Như tại Vườn Nai. Đó là kinh “Chuyển Pháp Luân” gồm hai bài pháp thoại Tứ Diệu Đế và Vô Ngã Tướng.

Nội dung Kinh Tứ Diệu Đế nói về bốn chân lý. Chân lý thứ Nhất là thực trạng đau khổ của con người gọi là Khổ đế. Chân lý thứ Hai là truy tìm nguồn gốc gây ra thực trạng phiền não gọi là Tập đế. Đế thứ Ba, chấm dứt toàn bộ nguyên nhân gây ra khổ đau gọi là Diệt đế, trải nghiệm an lạc hạnh phúc, cao nhất là Niết-Bàn. Niết-Bàn không phải là cảnh giới hay một nơi chốn. Niết-Bàn là thái độ sống, với trạng thái tâm thanh tịnh, an lạc, khi toàn bộ khổ đau và nguyên nhân tạo ra khổ đau đã đoạn tận. Gần nhất cũng có thể hiểu Niết-Bàn là trải nghiệm trạng thái tâm bây giờ và ở đây. Muốn trải nghiệm Niết-bàn hay Diệt đế, hành giả phải tu tập thực hành theo đế thứ Tư là Đạo Đế.

Đạo đế gồm tám nhánh tu tập, có thể chia thành ba nhóm. Đầu tiên là nhóm Trí Tuệ gồm Chánh tri kiến, Chánh tư duy. Nhóm thứ Hai là Giới đức hay Đạo đức bao gồm Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Nhóm thứ Ba là Thiền Định gồm Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định.

Hành giả tu tập, thành tựu Bát Chánh Đạo tức thành tựu Tam Vô Lậu Học: Giới, Định, Tuệ có nghĩa là hành giả đã chứng nhập quả vị giải thoát hoàn toàn, không còn bị trói buộc trong Tam giới nữa.

II. GIỚI VÔ LẬU HỌC

Giới nguyên gốc từ tiếng Phạn là “Sĩla”. Tàu dịch là Giới có nghĩa là phòng bị, răn cấm, câu thúc.  Giới ở đây, nói cho đủ là giới luật, nghĩa là những điều răn cấm không được làm. Những điều răn cấm không được làm đó là những điều sai quấy, trái ngược với tự nhiên, trái với đạo đức.  Vi phạm giới luật, ảnh hưởng ngoài thân là làm rối loạn trật tự cộng đồng, đoàn thể. Hậu quả bên trong là tâm không được an ổn bởi những lo âu phiền não vì những hành vi xấu ác mà mình đã gây ra. Giới luật trong nhà Phật không phải chỉ là luật lệ ngăn cấm, mà nên hiểu giới luật như là phép rèn luyện, không sai phạm một lĩnh vực nào là được tự do ở lĩnh vực đó. Cho nên phát triển giới hay giữ giới là có những ý nghĩ, hành vi xây dựng, đồng nghĩa với những việc làm thiện lành, đạo đức, lợi mình, lợi người.

Giới Vô Lậu Học là môn học nhắm vào kỷ luật bản thân hành giả, bằng cách rèn luyện tuân thủ những giới luật do Đức Phật chế tác để phòng ngừa tội lỗi, tránh những hành động trái pháp, kiềm hãm dục vọng (tham, sân, si), hướng đến việc hành trì tu tập với mục đích tiến dần đến quả vị giác ngộ.

            Trong nhà Phật, thời gian 12 năm đầu kể từ khi Đức Phật thành lập Giáo đoàn, đời sống Tăng già hoàn toàn thanh tịnh, chư Tăng luôn sống trong lời Phật dạy “Chư ác mạc tác; Chúng thiện phụng hành; Tự tịnh kỳ ý; Thị chư Phật giáo”, nghĩa là hằng ngày luôn suy nghĩ những điều thiện, nói những lời lành, làm những việc lành, ngăn chặn những ý niệm xấu ác, ngăn chặn những lời nói hung dữ, không làm những hành động hại người hại vật.  Nói chung là tu tập giữ ba nghiệp thân, khẩu, ý luôn được thanh tịnh, trong sáng. Về sau, trong Tăng đoàn xuất hiện nhiều hiện tượng vi phạm đời sống phạm hạnh, nên Đức Phật thiết lập Giới bổn, nhằm mục đích xây dựng Tăng già hưng thịnh, Chánh pháp trường tồn. Khi lập thành giới, Đức Phật nêu ra mười lợi ích để cho thấy tầm quan trọng của các học giới như sau: (*)

1. Giúp Tăng chúng được cực thịnh.

2.  Giúp Tăng chúng được an ổn .

3. Giúp điều phục người ương ngạnh, cứng đầu.

4. Giúp các thiện Tỷ-kheo được sống an ổn

5. Giúp chế ngự các lậu hoặc ngay trong hiện tại.

6.  Giúp chặn đứng các lậu hoặc trong tương lai.

7. Giúp đem lại tịnh tín cho những người không tin.

8. Giúp tăng trưởng tịnh tín cho những người đã có lòng tin.

9. Giúp diệu pháp (Chánh pháp) được tồn tại.

        10.  Giúp giới luật được chấp nhận.

Tùy theo căn cơ chúng sanh và tùy thuộc sự phát tâm thọ lãnh giới pháp của từng người, mà Đức Phật thiết lập khác nhau.

– Giới tại gia: Phật tử tại gia như Cận sự nam, Cận sự nữ thọ lãnh ngũ giới, Thập thiện giới, Bát quan trai giới, Bồ-tát giới.

– Giới xuất gia: Dành cho hàng xuất gia. Có 5 hội chúng: Sa-di và Sa-di-ni thọ trì 10 giới và 22 hay 24 oai nghi. Thức-xoa-ma-na giữ 4 giới căn bản, 6 học pháp, 292 hành pháp. Tỳ-kheo thọ 250 giới. Tỳ-kheo-ni thọ 348 giới. Còn giới Bồ-tát, cả Phật tử tại gia và tu sĩ xuất gia đều có thể lãnh thọ gồm 10 giới trọng và 48 giới khinh, gọi là thông giới.

Giới trong Giới-bổn Ba-la-đề-mộc-xoa, gốc từ văn Pãli là Patimokkha,  văn Sanskrit là Pràtimoksa,  có nghĩa là Biệt giải thoát hay Xứ Xứ giải thoát và Tùy thuận giải thoát.

Biệt giải thoát là giữ giới phần nào sẽ được giải thoát phần đó. Tùy thuận giải thoát là giải thoát tùy theo pháp hành trì của hành giả đưa đến quả hữu vi hay vô vi.

Mặt khác giới được chia thành Thông giới và Biệt giới. Thông giới là giới Phật tử tại gia hay xuất gia đều được thọ lãnh. Biệt giới chỉ có tự thân nhận thọ, khi hình tướng mất thì giới cũng mất. Khi nói đến Bồ tát giới tức đề cập tới Tam-tụ-tịnh giới gồm 3 nhóm như sau:

– Nhiếp luật nghi giới (Biệt giải thoát luật nghi): Gồm các giới của tại gia và xuất gia. Đó là ngăn cấm các điều ác, phát khởi các điều lành.

– Nhiếp thiện pháp giới: Là người chuyên tâm hành trì các việc thiện, xem việc thực thi các thiện pháp là hình thức hành trì giới.

– Nhiêu ích hữu tình giới:  Lấy việc làm lợi ích cho tất cả chúng sanh là việc trì giới.

Cụ túc giới (đại giới) là biệt giới chỉ dành riêng Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni. Giới Tỳ-kheo về phần rộng thì vô lượng, phần trung thì ba ngàn oai nghi, phần lược thì 250 giới. Tỳ-kheo-ni cũng thế, chỉ khác phần lược là 348 giới.

   Tóm lại, hành giả tại gia hay xuất gia đều có bổn phận học hỏi thông suốt những giới luật và giữ giới mình đã thọ lãnh bằng hai cách:

Chỉ trì: Không làm những điều ác mà trong giới kinh cấm không cho làm.

-Tác trì: Nên làm những điều thiện mà trong giới kinh ấn định phải làm.

Về vấn đề vi phạm giới: Một người bị cho là phạm giới, khi người ấy hội đủ ba điều kiện. (1) Cố ý vi phạm. (2) Chuẩn bị để phạm. (3) Vi phạm cụ thể bằng hành động. Trong ba điều kiện bị buộc tội vi phạm có hai điều thuộc về phần tác ý của tâm. Cho nên ngoài việc giữ giới tướng (do Đức Phật chế tác) thọ lãnh, vấn đề đặt nặng là giữ giới thể, tức là tu tập giữ ý thức được thanh tịnh, rời xa các ác pháp, bất thiện pháp, buông bỏ tham ái, sân hận và chấp thủ… thì cuộc sống được an lạc hạnh phúc trong hiện tại và tương lai. 

III. ĐỊNH VÔ LẬU HỌC

Định tiếng Pali là Samàdhi. Người Trung Hoa dịch là “Tam muội”. Định mang nhiều ý nghĩa như: Tập trung (concentration); làm cho vững chắc, không dao động (make firm), sự tĩnh lặng (tranquillity); sự yên lặng (calmness), trạng thái tập trung sâu (a deep concentration state). (**)

Trong Trung Bộ Kinh 1, có hai định nghĩa về Định.

Bài kinh số 30: Định là “Nhất tâm” (P: Cittass’ ekaggatã: mental one-pointedness) cũng có nghĩa là “Nhất niệm” (một niệm). Đây là trạng thái tâm đồng nhất với đối tượng, nơi đó không có Ý thức hiện hữu, mà chỉ có “đơn niệm biết” (a single thought of awareness). Nghĩa là tâm hoàn toàn yên lặng không dao động (wavering) bởi các đối tượng ngoài giác quan.

Bài kinh số 36: Định được xem là “trạng thái tâm thuần nhất” (P: Cetaso ekodi: unity of the mind). Đây là trạng thái tĩnh lặng của tâm ( a state of mental tranquillity) hay trạng thái không hai của Ý thức (A nondualistic state of consciousness). Trong đó nội tâm thiền gia không còn Tầm Tứ, là trạng thái tâm không còn chú ý (tầm) và bắt dính (tứ) theo đối tượng.

Định nói cho đủ là Thiền Định (Samàdhi Bhavanà). Thiền Định là phương pháp thực tập để chuyển đổi quán tính dao động của Vọng tâm sang quán tính yên lặng sáng suốt không lời gọi là Chân tâm. Khi tâm hoàn toàn định tĩnh, yên lặng vững chắc mà vẫn có nhận thức biết không lời thì gọi là Định hay Chánh Định. Chánh Định là chi thứ tám trong Bát Chánh Đạo tương đương với tầng Định cao nhất trong bốn tầng Định mà Đức Phật đã trải nghiệm và thành đạo.

 Định Vô Lậu Học là môn học về thiền định. Là phương pháp thực tập  tâm chuyên chú vào một đối tượng, quán sát đối tượng ấy để phát sinh ra tuệ. Đối tượng để tu tập Thiền Định thì được gọi là đề mục. Có nhiều đề mục để thực tập. Tu tập Thiền thì có hai loại: Thiền Định, giúp tâm vắng lặng, cô lập lậu hoặc và Thiền Quán là quán sát đề mục với cái biết trống rỗng như thật, nhằm phát huy trí tuệ.

Thực tập thiền Định có hai bước: Bước một là Chánh niệm, bước hai là Chánh định. Chánh niệm tiếng Sanskrit là “samyaksmirti”, tiếng Pãli là “samasati”. Chánh niệm có nghĩa là nhận biết đúng đắn, rõ ràng như thật về một đối tượng nào đó. Cũng có thể hiểu người có Chánh niệm là người làm chủ được tâm mình trong bất cứ lúc nào. Nói cách khác trong mỗi hành động, thiền giả đều có niệm biết rõ ràng (tỉnh thức) về việc mình đang làm như đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, mặc quần áo, nói năng, nhìn, ngó. Ngay cả lúc im lặng, nhắm mắt, cũng biết rõ những gì xảy ra quanh mình hay trong thân tâm mà không dính mắc, chạy theo. Đó gọi là Chánh niệm tỉnh giác. Tóm lại Chánh niệm là thấy biết mọi thứ đang diễn ra như chúng đang là. 

Muốn thực hành Thiền Chánh Niệm (để đến Chánh Định) trước hết người tập phải xử dụng Trí Năng tỉnh ngộ để tu tập. Trí Năng tỉnh ngộ giữ vai trò chú ý, chú tâm vào một đề mục thiền để cột tâm lại không cho tâm tán loạn.

Thí dụ như tu tập đề mục Anapànasati Samàdhi (Định Niệm Hít Vào Thở Ra). Ban đầu hành giả chú ý nói ra lời “Tôi biết tôi thở vào” khi hít không khí vào. “Tôi biết tôi thở ra” khi thở không khí ra. Đây là hành giả xử dụng “đơn niệm biết có lời”, nghĩa biết mình đang nói ra lời, nhưng chỉ với một nội dung thở vào thở ra mà thôi. Kết quả không có niệm nào khác chen vào, tâm được yên lặng, kinh nghiệm Định nhưng không vững chắc. Thuật ngữ gọi đây là trạng thái của Thiền Chỉ (Samatha Bhavanà). Giai đoạn này là giai đoạn tầm (Vitakka/sự nói thầm trong đầu) tắt Tứ (Vicàra/đối thoại thầm lặng hay lầm bầm trong đầu không ngừng). Tầm là do thiền gia tự nói ra có công năng không để những vọng tưởng nói thầm qua lại từ trong ký ức khởi lên là Tứ.

 Bước kế tiếp là giữ Chánh Niệm về sự thở vào thở ra, bằng cách thầm nhận biết không lời về hơi thở vào ra đó. Hơi thở dài (thầm) biết hơi thở dài. Hơi thở ngắn (thầm) biết hơi thở ngắn. Hơi thở nặng nề (thầm) biết hơi thở nặng nề. Kết quả ngôn hành (Tầm Tứ) yên lặng, hành giả kinh nghiệm Định Không Tầm Không Tứ.

Bước thứ Ba, Tỉnh thức biết không lời rõ ràng đầy đủ về những gì đang xảy ra trên thân, trong thân (thân, thọ, tâm, pháp) hay những gì xảy ra xung quanh (ngoại thân) trong hiện tại bây giờ và ở đây, mà tâm hoàn toàn yên lặng không dính mắc. Tầng định này gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Trong giai đoạn này trạng thái tỉnh thức biết không lời mà thiền giả đã đạt được trong bước thứ Ba từ từ trở thành Nhận thức biết không lời. Tâm thức thiền giả rơi vào trạng thái bất động. Chút dính mắc trong tâm với trạng thái an lạc cũng biến mất (xả). Nhận thức không lời càng lúc càng tỏ rạng. Hành giả chìm sâu vào định không đối tượng. Hơi thở rơi vào trạng thái yên lặng từng chập, gọi là tịnh tức. Tầng thiền này được gọi là “Định Bất Động” vì cả ba hành: Ngôn hành, Ý hành và Thân hành hoàn toàn yên lặng. (***)

 Bấy giờ tâm của thiền gia sáng suốt như tấm gương. Trong kinh mô tả trạng thái tâm này: “định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm , không phiền não, nhu nhuyến, ngoài lý luận, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh…” Đây là cơ hội tốt nhất chuyển sang thiền Quán, nghĩa là quán sát đề mục để phát sinh Tuệ. Tuệ này là thấy rõ thực tướng của đề mục, nhận ra đặc tính vô thường, khổ, vô ngã cùng sự sinh diệt của đối tượng để không còn dính mắc hay chấp trước với những gì xảy ra trên đời.

 Theo Phật giáo Nguyên Thủy, hành trì thiền Quán (Vipassanà/Thiền Minh sát) để phát huy trí tuệ có 4 đề mục. Thân, Thọ, Tâm, Pháp.  – Thân hành xứ: Lấy thân thể làm đề mục thiền định. Quán thân nơi thân. – Thọ hành xứ: Lấy thọ làm đề mục thiền định. Quán thọ nơi thọ. -Tâm hành xứ: Lấy tâm làm đề mục thiền định. Quán tâm nơi tâm. – Pháp hành xứ: Lấy pháp làm đề mục thiền định. Quán pháp nơi pháp.

Theo Phật giáo Phát triển, thực tập thiền định là dùng trí Bát Nhã quán chiếu các pháp như: năm uẩn đều không (ngũ uẩn giai không); nhân vô ngã, pháp vô ngã … Thiền gia thấu đạt Tánh Không, liễu tri các pháp, tâm an trú trong Định, trí tuệ Bát Nhã bừng sáng. Phương pháp tu thiền Định này là dựa vào kinh Kim Cương, Lăng Nghiêm, Viên Giác, Hoa Nghiêm v.v…

“Tối thượng thừa thiền” thuộc về Thiền Tông, là phương pháp dạy thiền của Tổ Bồ Đề Đạt Ma dành cho các bậc thượng căn, thượng trí qua chủ trương: “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật”. Người đại trí chỉ cần nghe một câu nói, một bài kệ hoặc cử chỉ thích hợp là khai thị được Tánh giác của họ, làm cho họ ngộ đạo tức khắc, không cần phải giảng giải nói năng dài dòng.

Tóm lại, Định Vô Lâu Học là môn thiền Định cần thiết và quan trọng vì trong trạng thái Định, lậu hoặc, kiết sử, tùy miên, tham, sân, si…  bị cô lập. Ba nghiệp thân khẩu ý  được thanh tịnh không tạo nghiệp mới,  giúp cho thân tâm thiền giả được giải thoát khỏi phiền não khổ đau.

Tuy nhiên, trong đạo Phật, Định không phải là mục tiêu chính, mà chỉ là cái cầu để bước tới Tuệ. Nhưng muốn Tuệ phát sáng, thiền gia nhất định phải thông qua Định để phát triển năng lực vững chắc, hầu khai triển tiềm năng giác ngộ, tức Phật tánh. Như vậy Định một mặt là phương tiện cơ bản để đạt được Tuệ tức giác ngô, mặt khác Định là tác nhân đào thải tận gốc tập khí hay lậu hoặc đưa đến giải thoát.

IV. TUỆ VÔ LẬU HỌC

            Tuệ Vô Lậu Học hay Huệ Vô Lậu Học là môn học thứ ba trong Tam Vô Lậu Học. Danh từ Tuệ thường đi chung với từ Trí gọi là Trí Tuệ hay Trí Huệ. Trí Huệ trong giáo lý nhà Phật còn gọi là Bát Nhã. Bát Nhã là Hán ngữ dịch từ tiếng Panna (Pãli) hay Prajna (Sanskrit) có nghĩa là sự phát sáng của trí hiểu biết sau khi tẩy sạch dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu.

            Trí tuệ khác với trí thức. Trí thức hay kiến thức là trí hiểu biết của người thế gian. Người trí thức được xem là người thông minh vì có sự hiểu biết rộng rãi. Những sự hiểu biết đó đến từ bên ngoài được tích lũy từ gia đình, trường lớp, rút tỉa từ kinh nghiệm thành công hay thất bại trong đời sống. Cái biết này hay nhận thức này, được xem là cái biết hay nhận thức của thế gian hữu hạn thuộc về tục đế .

            Trí tuệ vô lậu trong đạo Phật là trí nhận thức biết, phát xuất từ bên trong tâm của các bậc thiền gia tu tập ba môn Giới-Định-Tuệ mới có. Tu giới để chấm dứt ác hạnh hiện hành. Tu tập Thiền Định để cô lập tất cả những chủng tử tùy miên tham sân si gọi chung là lậu hoặc ẩn tàng trong tâm. Những chủng tử này sẽ dễ dàng trồi lên khi tâm hành giả xao lãng thất niệm. Chỉ có Tuệ phát sinh trong Định mới có thể diệt những chủng tử phiền não vô minh này. Khi vô minh phiền não bị đoạn diệt không còn dư tàn thì mới giải thoát vĩnh viễn khổ đau, chứng được Niết-Bàn.

            Trí tuệ Bát Nhã có hai cấp bậc:  

1) Thấp là Trí : Tiếng Pãli là Nàna , tiếng Sanskrit là Jnàna. Tiếng Anh là Insight. Trí này là trí hiểu biết về Phật Pháp do học hỏi từ các bậc Thầy hay từ trong tam tạng kinh điển. Sự hiểu biết này, tuy có mùi vị đạo nhưng vẫn còn thuộc về kiến thức Phật học, bởi do học từ kiến thức của người khác.

Thí dụ: Chúng ta nghe các bậc Thầy giảng về Chân lý Tứ Diệu Đế. Chúng ta hiểu rõ về Khổ, Tập, Diệt, Đạo, nên nói chúng ta đã đạt được: “Khổ trí, Tập trí, Diệt trí, Đạo trí” hay chúng tađã “tuệ tri về Khổ đế, tuệ tri về Tập đế, tuệ tri về Diệt đế, tuệ tri về Đạo đế”.

Tuệ tri hay tuệ trí này không phải chúng ta tự biết mà do chúng ta học từ người khác, nên vẫn bị xem là tục đế. Nhưng vì chuyên học và ghi nhận những Nhận thức của Đức Phật chứng ngộ nên tạm xếp là “Tục đế Bát Nhã” để phân biệt với kiến thức thế gian là tục đế.  

2) Cao hơn Trí, là Tuệ (Bát Nhã): Panna (P); Prajna (Skt), tiếng Anh là wisdom, là trí huệ tự phát do công phu tu tập thể nhập thiền Định. Thể nhập có nghĩa là qua dụng công thực hành kết quả “Ta và đối tượng là một” (nhất tâm). Nhưng muốn đạt được Huệ phải đi từ Trí, nghĩa là phải học hỏi từ bậc Thầy rồi thực hành thiền Định để kinh nghiệm Thân chứng, Tâm chứng và Trí chứng. Trí tuệ này là trí tuệ siêu vượt (transcendental wisdom). Có nhiều tên gọi khác như: Huệ Bát Nhã, Huệ Tự Phát hay Phật tánh hoặc tiềm năng giác ngộ, Chân Như v.v… được xếp là “Chân đế Bát Nhã”.

V. TẠM KẾT

            Tùy theo căn cơ của chúng sanh mà Đức Phật có nhiều phương thức, nhiều pháp môn hướng dẫn đệ tử tu tập để đạt quả vị giải thoát tối hậu, nhưng với pháp môn nào người tu tập cũng phải thực hành nhuần nhuyễn Tam Vô Lậu Học: Giới-Định-Tuệ. Vì Tam Vô Lậu Học có công năng đưa hành giả qua bờ giác ngộ thoát khỏi vòng tục lụy luân hồi sinh tử./.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(Chân Tâm thiền thất; July 26-2022)

Tài liệu tham khảo:

(*) Tăng Chi Bộ Kinh 3B, tr.73)

(**) “Tương Ưng Giới Định Huệ và Bát Chánh Đạo” (Sách: “Trên Đường Về Nhà” tr.101-122). Tác giả Thích Nữ Hằng Như. Published by Ananda Viet Foundation (2020). Amazon tổng phát hành.

(***) Theo giáo trình giảng dạy của cố Hòa Thượng Thích Thông Triệt.

Giải Thoát Trong Đạo Phật

Thích Nữ Hằng Như

Làm người sống ở đời chắc ai cũng một đôi lần mong mỏi được giải thoát. Giải thoát cái gì? Chẳng hạn như khi bản thân mình gặp chuyện không vừa ý thì muốn được thoát khỏi sự không hài lòng không vừa ý đó. Như một người nghèo khổ may mắn được người giàu có cưới làm vợ, ngay từ giây phút thay đổi cuộc sống thì người này đã được giải thoát khỏi cảnh nghèo khổ bần hàn. Khi cuộc sống vợ chồng bất hòa, hằng ngày cải vả, nặng nhẹ khoa tay múa chân, gây đau khổ cho nhau.

Trong trường hợp này tờ giấy ly hôn giúp cho họ giải thoát khỏi cuộc sống ngột ngạt đau khổ đó. Hoặc người tù tội sau một thời gian bị nhốt trong nhà giam, nay được trả tự do, như vậy người này vừa được giải thoát khỏi vòng lao lý. Hoặc có những người con, sống trong gia đình hạnh phúc, được cha mẹ chăm sóc chu đáo lại cảm thấy như mình bị kiềm kẹp không có tự do, bèn trốn cha mẹ sống lang thang với người ngoài, cho rằng mình đã được tự do, được giải thoát khỏi tầm mắt gắt gao của cha mẹ. Một người bị bệnh hành hạ đau đớn thân xác, may mắn chữa trị kịp thời, hết bệnh, khỏe mạnh trở lại, nên nói người đó được giải thoát khỏi căn bệnh nguy hiểm v.v…

Chuyện giải thoát không chỉ bàn ở con người mà loài vật khi bị ràng buộc cũng muốn được giải thoát. Thí dụ như con chim bị nhốt trong lồng, tuy hằng ngày được chủ chăm sóc cho ăn uống tử tế nhưng nó vẫn cảm thấy tù túng, một ngày kia nó thoát ra ngoài tung cánh bay giữa bầu trời cao rộng, không bao giờ trở lại, xem như con chim đó được tự do, được giải thoát. Như vậy, con người hay con vật được tự do thoát khỏi sự ràng buộc nào đó, thì được xem là giải thoát. Nhìn chung thì giải thoát có nghĩa là cởi mở, cởi bỏ xiềng xích, thoát ly ra khỏi những ràng buộc trong hoàn cảnh khổ đau nghịch ý. Tóm lại giải thoát là đạt tự do sau khi buông xả tất cả những trói buộc.

II. GIẢI THOÁT TRONG ĐẠO PHẬT

Trên đây là một vài thí dụ mô tả ý nghĩa giải thoát ở ngoài đời. Trong đạo Phật, hai từ giải thoát được đề cập tới một cách sâu sắc hơn. Giải thoát cao nhất theo triết lý nhà Phật là trạng thái tinh thần con người được tự do, tự tại trước những buồn vui thương ghét hạnh phúc hay đau khổ của bản thân hay người ngoài cuộc. Tâm người ấy thanh tịnh tuyệt đối do đoạn tận hết những tập khí, đam mê, dục vọng, dập tắt ngọn lửa ngầm tham, sân, si là gốc rễ của mọi đau khổ.  Các bậc thánh nhân này đã chấm dứt dòng nhân quả nghiệp báo, lậu hoặc,  vượt qua biển khổ vô minh, lên bờ giác ngộ giải thoát.

Còn chúng sanh thì đa phần sống trong cảnh trái ngang đau khổ nên người nào cũng muốn xa lìa khổ ải, tìm kiếm niềm vui, mong cầu giải thoát. Nhưng muốn giải thoát không phải là chuyện dễ, bởi là phàm nhân nên thường xuyên bị tri kiến mê lầm che lấp, khiến nhận thức và hành vi biến thành nô lệ của bản ngã ích kỷ, chạy theo ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy; hoặc làm nô lệ cho sáu giác quan mê đắm với sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Để đạt được những mục tiêu này, thử hỏi với một con người đang bị tri kiến mê lầm ngăn che như vậy, thì làm sao tránh khỏi lời nói, hành vi tạo nhiều ác nghiệp gây đau khổ cho mình và phiền não cho những người liên hệ.

Các học giả Phật giáo cho rằng hệ thống giáo lý của đạo Phật nhắm vào một mục tiêu cao thượng, đó là hướng dẫn phương pháp, đường lối tu tập để hành giả đạt Giác ngộ Giải thoát. Cho nên mới nói đạo Phật là đạo Giải thoát. Trong kinh điển Phật giáo, có ghi lại lời tuyên bố của Đức Phật: “Này các Tỷ-kheo, nước của đại dương chỉ có một vị mặn. Cũng vậy, pháp và luật của ta nói ra cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát” (Udana, Tự Thuyết Kinh).

Qua lời tuyên bố này, chúng ta thấy Đức Phật đã so sánh giáo Pháp của Ngài như bốn bể đại dương. Đại dương chỉ có một vị là vị mặn. Còn Chánh Pháp trong đạo Phật cũng có một vị duy nhất là vị giải thoát. Như vậy, Đức Phật đã xác định rằng mục đích duy nhất của đạo Phật là giúp chúng sanh tu tập để đến chỗ giải thoát giác ngộ.

Trên lộ trình tu tập giải thoát thì Niết-Bàn là mục tiêu giải thoát cao nhất. Niết-Bàn tiếng Phạn là Nirvana có nghĩa là diệt độ. Diệt độ ở đây không có nghĩa là triệt tiêu hay tiêu diệt. Bởi vì nếu hoàn toàn bị tiêu diệt thì người chứng ngộ biến thành một tượng đá vô tri giác không biết gì. Diệt ở đây có nghĩa là đoạn tận tham sân si, chấm dứt dòng nhân quả nghiệp báo, nghĩa là chấm dứt lậu hoặc gồm dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu và kiến lậu. Độ có nghĩa là vượt qua khỏi biển khổ vô minh, lên bờ giác ngộ. Như vậy chúng ta có thể hiểu Diệt Độ là Niết-Bàn, là Diệt đế (trong Tứ Thánh Đế), là Giải thoát ra khỏi quy luật luân hồi nhân quả.

Giải thoát có hai loại: Hữu Dư Y Giải thoát hay Hữu Dư Y Niết-Bàn, chỉ  thánh chúng được giải thoát ngay khi còn sống tức còn thân mạng. Tuy sống và sinh hoạt với người bình thường mà vẫn an nhiên, tự tại, giải thoát, không bị hoàn cảnh thế nhân chi phối. Khi thân hoại mạng chung, thì thể nhập Vô Dư Y Niết-Bàn. Vô Dư Y Niết-Bàn là bản thể thường còn, bất sinh bất diệt của vạn pháp hữu tình và vô tình, không thể dùng ngôn từ để diễn tả, cũng không thể dùng  ý căn ý thức hình dung đưa ra quan niệm giải thích.

III. PHƯƠNG TIỆN ĐƯA ĐẾN GIẢI THOÁT

Hành giả muốn đạt giải thoát tối hậu, theo giáo lý nhà Phật là phải tu tập Giới-Định-Tuệ không có con đường nào khác. Tu Giới-Định-Tuệ tức tu theo Bát chánh đạo. Bát chánh đạo là con đường đưa đến giải thoát. Bát chánh đạo gồm các yếu tố: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định.

Chánh tri kiến, Chánh tư duy thuộc về Tuệ học. Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng thuộc về Giới học. Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định thuộc về Định học. Về mặt Tuệ học, ngoài việc thông suốt Tứ thánh đế là: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế, hành giả cũng cần phải hiểu rõ về mười hai nhân duyên trong giáo lý Duyên Khởi để thực hành đúng pháp. Về mặt Giới học thì giữ gìn thân tâm trong sạch, làm việc lành tránh việc ác.  Muốn cô lập lậu hoặc thì phải thực hành thiền Định, thiền Quán. Lậu hoặc gồm vô số ác pháp, trong đó có tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến v.v…

Về giáo lý Duyên Khởi, Đức Phật đưa ra mười hai nhân duyên với định lý: “Cái này có cái kia có. Cái này diệt cái kia diệt”. Mười hai nhân duyên dính chặt vào nhau thành vòng tròn sinh tử. Đó là: Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục nhập, Xúc, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Già, Chết (khổ uẩn).  Vô Minh là duyên sanh Hành. Hành là duyên sanh Thức. Thức là duyên sanh Danh Sắc v.v… cứ như thế nối thành một vòng tròn, không có khởi đầu cũng không có chấm dứt. Hoặc Vô Minh diệt thì Hành diệt. Hành diệt thì Thức diệt v.v… Như vậy toàn bộ mắt xích bị tan rả. Hành giả được giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.

Tu tập theo mười hai nhân duyên, hành giả cũng thực hành Giới-Định-Tuệ. Tu Giới (Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng) sẽ cắt đứt tại mắt xích Hành, ba nghiệp thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Nhân duyên Hành bị triệt tiêu thì toàn bộ các mắt xích cũng tan rả.  Hành giả được giải thoát.

 Hành giả tu Tuệ (Chánh tri kiến, Chánh tư duy) hiểu rõ nguyên nhân gây ra khổ đau chính là do tham dục khát ái. Cắt đứt mắt xích Ái thì vòng mắt xích mười hai nhân duyên cũng tan rả. Hành giả được giải thoát.  

Ngoài ra nhờ có Chánh tri kiến mà hành giả dẹp được những tri kiến mê lầm gọi chung là tà kiến, tức cắt đứt mắt xích Vô Minh.  Vì Vô Minh nên Tri kiến mới mê lầm. Tri kiến mê lầm, là cái thấy biết không đúng với chân lý Phật dạy mà cho là đúng. Hay là cái thấy biết cảnh vật không đúng như thật của người đang mang kính màu. Kính màu xanh thì hành giả thấy cảnh màu xanh, kính màu xám thì thấy cảnh bao trùm màu xám… Hoặc là cái thấy biết đối tượng do quá khứ, hiện tại, tương lai ảnh hưởng khiến tâm xúc cảm thương ghét nổi lên mà nhận định sai lầm về đối tượng.

Nhờ tu Tuệ nên hành giả giải thoát được tri kiến mê lầm, trả cái thấy biết mê lầm đó về cho cái thấy biết hiện tại chân thật bây giờ và ở đây, đúng như nó đang là nên gọi là Tri kiến giải thoát.  Nói rõ hơn nhờ có Chánh tri kiến, Chánh tư duy nên hành giả lần lượt thanh lọc được dòng tâm thức uế nhiễm. Hành giả thúc liễm thân tâm, không dính mắc với tướng chung tướng riêng của bất cứ đối tượng nào, sau cùng không còn chấp trước thân này pháp nọ là ta hay của ta … nên thoát khỏi luyến ái, não phiền. Như vậy Tri kiến giải thoát là sự thấy biết chân chánh, thấy biết  như thật, nhờ áp dụng Phật Pháp, tinh cần tu tập, dần dần đoạn tận tham dục đạt được giải thoát khổ đau.

            Tóm lại tu pháp mười hai nhân duyên, hành giả chỉ cần cắt đứt một mắt xích là phá vỡ được toàn bộ mười hai mắt xích. Hành giả thoát khỏi vòng sinh tử.

                                                         IV. KẾT LUẬN

            Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra. Muốn thoát khổ thì cũng phải chính mình tháo gỡ sợi dây ràng buộc đó chứ không Thần Phật nào cứu rỗi, ban ơn, giáng họa cho mình được. Trước khi thành đạo, Đức Phật là một vị Thái tử sống trong nhung lụa vàng son. Khi ngộ ra con người sống ở thế gian này không một ai tránh khỏi  sanh, lão, bệnh, tử, nên người đã thoát ly khỏi cung vàng điện ngọc, bỏ lại vợ đẹp con thơ, ra đi tìm đường giải thoát. Sau khi thành đạo, trong 45 năm hoằng dương chánh pháp, Đức Phật đã tùy theo căn cơ của chúng sanh mà diễn thuyết. Dù pháp nào, thì chung quy cũng chỉ nhằm giúp chúng sanh thoát khổ giác ngộ.

            Muốn nếm được hương vị giải thoát, trước hết hành giả phải tự thân nỗ lực tu hành.  Dù tu theo pháp môn nào, hành giả cũng phải thâm nhập bốn nền tảng giáo lý của đạo Phật. Đó là mọi khổ đau của chúng sanh đều phát xuất từ một hay nhiều nguyên nhân. Và những nguyên nhân đó có thể giải trừ bằng đường lối tu tập tám ngành Bát Chánh Đạo. Đó chính là thực hành Tam Vô Lậu Học: Giới-Định-Tuệ.

Thực hành Giới-Định-Tuệ, đời sống đạo đức của hành giả được thăng hoa, tâm định tĩnh, trí tuệ phát sáng. Kết quả sơ khởi của việc tu tập, hành giả được giải thoát khỏi một số ràng buộc như ý hay bất như ý trong đời sống hằng ngày. Tiếp tục tinh cần hành trì, buông xả mọi khả ái, khả lạc, khả ưu, khả sân, thường xuyên sống trong chánh niệm, thể nhập Giới-Định-Tuệ, hành giả sẽ thực thụ trải nghiệm trạng thái Xả, là trạng thái tâm hoàn toàn tự do trước mọi vướng bận của cuộc đời. Bấy giờ có thể nói  hành giả đã an toàn giải thoát, an trú trong Hữu Dư Y Niết-Bàn ./.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

                                 (Thiền thất CHÂN TÂM – August 13-2022)

Tìm Hiểu Kinh “Bát Đại Nhân Giác

Thích Nữ Hằng Như

I. DUYÊN KHỞI

Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ. (*) Kinh kể lại vào thời gian đức Phật trú ngụ tại tịnh xá Kỳ Viên. Trong một buổi Pháp hội, tôn giả A-Na-Luật là một trong số mười vị đại đệ tử của đức Phật đã chứng được thiên nhãn thông, thưa với Ngài rằng:

– Bạch đức Thế Tôn, bước đầu tu tập của người xuất gia là loại trừ tham, sân, ngã mạn, tật đố để bản thân có phẩm hạnh vô ngã, vị tha, và đem lại nhiều phước lạc cho mọi người… Bạch đức Thế Tôn, hiện nay Phật tử tại gia học đạo khá nhiều, đệ tử xuất gia tiếp cận xã hội hoằng Pháp lợi sinh cũng không ít. Làm thế nào để giúp các vị này tiến xa hơn đến chân trời giác ngộ, giải thoát và Niết bàn. Cúi xin đức Thế Tôn từ bi khai thị.

Đức Phật hoan hỷ dạy rằng:

– Này A-Na-Luật, lời nói của ông rất đúng. Người xuất gia cần phải trên cầu giác ngộ, dưới độ chúng sinh. Ngoài việc làm lợi ích cho nhân sinh, người xuất gia hằng ngày cần phải tự mình thực hành tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân nhằm hướng đến mục tiêu giải thoát. Tôi sẽ vì câu hỏi của ông mà nói lên tám điều giác ngộ đó. 

Đây chính là nguyên nhân, đức Phật giảng nói kinh “Bát Đại Nhân Giác”.

Kinh “Bát Đại Nhân Giác”  được hiểu là “ tám điều giác ngộ của các bậc Bồ Tát” hay là “tám điều giác ngộ của các bậc đại nhân”.  (**) Bài kinh này mang số 779 bằng chữ Hán trong bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, được Ngài An-Thế-Cao dịch từ tiếng Phạn sang Hán ngữ vào năm 148 Tây lịch. An-Thế-Cao là Thái tử xứ An Tức (Parthie), nay một phần thuộc Ba-Tư (Persia, Iran), một phần thuộc A-Phú-Hãn (Afghanistan). Vào thời điểm đó, đạo Phật từ Ấn Độ truyền sang vùng Trung Đông rất thịnh hành. Ngài An-Thế-Cao từ bỏ ngôi vua xuất gia tu học, sau khi giác ngộ nền minh triết của đạo Phật, Ngài đến Trung Hoa hoằng pháp và dịch quyển kinh này sang chữ Hán.

Bản kinh chữ Hán của Ngài An-Thế-Cao được nhiều vị tôn túc Việt Nam dịch sang Việt Ngữ và giảng dạy cho tăng ni cũng như cư sĩ. Duyên sự, có thiền  sinh đặt câu hỏi về bộ kinh này, nên chúng tôi mạo muội chia xẻ bài “Tìm Hiểu Kinh Bát Đại Nhân Giác” để chúng ta cùng nhau ôn học.

II. BẢN VIỆT NGỮ KINH “BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC”

Mở đầu kinh viết: Là người đệ tử Phật,ngày đêm phải luônchí tâm tụng đọc và quán chiếuvềTám điều Giác Ngộ của các vị Đại Nhân.

-Điều giác ngộ thứ nhất: Thế gian vô thường, quốc gia nguy hiểm, mong manh. Bốn đại khổ, không. Năm uẩn không có ngã. Sinh diệt biến đổi, hư ngụy, vô chủ. Tâm là gốc của ác, thân là nơi chứa của tội. Hãy quan sát như thế thì dần dần sẽ xa rời sinh tử.

– Điều giác ngộ thứ nhì: Nhiều tham muốn sẽ khổ. Sinh tử nhọc nhằn là do khởi từ lòng tham muốn. Không tham muốn và không tạo tác thì thân tâm tự tại.

– Điều giác ngộ thứ ba: Cái tâm này không bao giờ biết đủ và mãi luôn mong cầu. Cho nên nó làm cho tội ác tăng trưởng. Bồ Tát thì không như thế. Các Ngài luôn có chánh niệm và biết đủ. Họ sống an nhàn, giản dị là để tu Đạo. Việc làm duy nhất của họ là tu tập trí tuệ.

– Điều giác ngộ thứ tư: Lười biếng dẫn đến trụy lạc. Phải luôn tu hành tinh tấn, phá phiền não ác, hàng phục bốn loại ma, và ra khỏi ngục tù của năm uẩn và ba giới.

– Điều giác ngộ thứ năm: Ngu si dẫn đến sinh tử. Vì lẽ đó nên Bồ Tát luôn ở trong chánh niệm cùng đa văn học rộng để trí tuệ tăng trưởng và thành tựu biện tài. Giáo hóa chúng sinh là niềm vui lớn nhất của các Ngài.

– Điều giác ngộ thứ sáu: Bần cùng khốn khổ nảy sinh nhiều oán hận và kết duyên ác ngang trái. Bởi vậy nên Bồ Tát luôn thực hành bố thí. Họ cư xử oan gia và thân thuộc bình đẳng như nhau. Các Ngài không ôm lòng tà ác hay căm ghét người xấu.

– Điều giác ngộ thứ bảy: Năm dục dẫn đến lỗi lầm và hoạn nạn. Dẫu cho là người tại gia thì cũng đừng bị dục lạc của thế gian làm nhiễm ô. Phải luôn tưởng nhớ đến ba y, bát sành và Pháp khí. Phải lập chí nguyện xuất gia, thanh tịnh tu Đạo, sống tịnh hạnh cao thượng và từ bi với tất cả.

– Điều giác ngộ thứ tám: Sinh tử ví như ngọn lửa cháy phừng và chúng mang theo vô lượng khổ não. Hãy phát tâm Đại thừa để rộng độ tất cả. Hãy nguyện vì chúng sinh mà thọ vô lượng khổ của họ và chỉ dẫn hết thảy đến niềm an lạc cứu cánh.

Đây là 8 điều mà chư Phật, Bồ Tát và các bậc đại nhân đã giác ngộ. Các Ngài tinh tấn hành Đạo, khởi lòng từ bi, siêng tu trí tuệ, và chèo thuyền Pháp thân đến bờ tịch diệt. Rồi sau đó lại trở về sinh tử để độ thoát chúng sinh. Các Ngài dùng tám điều trên để khai đạo tất cả, khiến các chúng sinh tỉnh ngộ nỗi khổ của sinh tử, xa lìa năm dục, và tu tâm nơi thánh Đạo.

Nếu đệ tử nào của Phật trì tụng tám điều này thì mỗi khi quán niệm, diệt được vô lượng tội, thẳng tiến về Phật đạo, và nhanh thành chánh giác. Họ vĩnh viễn sẽ đoạn trừ sinh tử và luôn sống an vui. (hết trích)

III. TÌM HIỂU Ý NGHĨA KINH “BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC”

– Kinh: Là những lời dạy của đức Phật, được kết tập lại thành bộ gọi là kinh. Lời Phật dạy phù hợp với chân lý,  thích hợp với căn cơ của chúng sanh, trải qua ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai đều đúng. Kinh Phật nói ra nhằm giáo hóa chúng sanh, giúp họ ngộ ra lẽ thật, mà tu hành để được giải thoát.

 – Bát: Là tám. – Đại nhân: Là người lớn. Người lớn ở đây, nên hiểu là người tu tập và giác ngộ thấy rõ các pháp đúng như thực. Là người phát tâm tu lục độ chứng dần từ Sơ địa tiến đến Thập địa, gọi là Bồ Tát. Khi tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn thì thành Phật. Các vị Bồ-Tát này, Phật gọi là đại nhân.

– Giác: Là biết, là trí tuệ tối thượng do tu chứng mà thành, chứ không phải cái biết theo kiến thức của người thế gian.

– Bát Đại Nhân Giác: Là tám điều giác ngộ của Phật và Bồ Tát.

Thông thường mở đầu mỗi bộ kinh đều có “lục chủng chứng tín” hay “lục chủng thành tựu”, tức là sáu điều chứng của ngài Anan nêu ra để người khác nghe mà đủ lòng tin vào pháp thoại Ngài tụng, là do Phật Thích Ca thuyết.  Thí dụ bài “Kinh Tâm Hoang Vu” (Cetokhila sutta) thuộc Trung Bộ Kinh, mở đầu như sau:

Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá Vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này chư Tỷ-kheo.” — “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn…” (hết trích)

Sáu chứng tín của bài “Kinh Tâm Hoang Vu” gồm những điều như sau:

1. Văn: Tôi nghe” nghĩa là tôn giả Anan nghe, rồi thuật lại.

2. Tín:như vầy” chỉ pháp thoại mà Ngài Anan nghe Phật thuyết.

3. Thời:Một thời” là thời gian nói Kinh.

4. Chủ:Thế Tôn” là vị thuyết pháp.

5. Xứ:ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika”, nơi Phật thuyết pháp.

6. Chúng:Các Tỷ-kheo” là những người nghe Phật thuyết giảng.

Kinh “Bát Đại Nhân Giác” mở đầu không có phần này. Tại sao vậy? Hòa Thượng Thích Thanh Từ giải thích rằng:  (**) “Vì lúc bấy giờ Phật pháp mớitruyền vào Trung Quốc, người học Phật chưa thâm nhập giáo lý nhiều, nếu để trọn bộ kinh dày cho họ đọc, e không kham đọc nổi, nên Ngài An-Thế-Cao phương tiện rút từng phần tinh yếu của Phật pháp trong nhiều bộ kinh mà dịch, phân ra thứ tự tám điều giác ngộ, thành Kinh “Bát Đại Nhân Giác”, để cho người mới phát tâm tu học dễ nắm được những điểm thiết yếu”.

– Điều giác ngộ thứ nhất: Nhận diện vạn pháp mong manh, biến đổi, vô thường. Vũ trụ thì do bốn đại kết hợp mà thành. Bốn đại đó là thủy đại, địa đại, phong đại và hỏa đại. Chỉ cần một đại hư hoại thì cả vũ trụ cũng tàn lụi theo.  Con người do tập hợp của năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Sắc là vật chất, là thân người có thể xúc chạm và nhìn thấy. Thọ là cảm giác đau đớn, cảm thọ  buồn vui, hận ghét. Tưởng là tri giác do hình ảnh tưởng tượng hiện lên trong đầu. Hành là phản ứng của tâm. Thức là cái biết phân biệt so sánh. Năm ấm còn gọi là năm uẩn. Mỗi ấm thành hình, cũng do nhiều điều kiện khác nhau hợp lại mà thành, nên thực chất năm ấm không có chủ quyền, không thực ngã, do đó nó sinh diệt thay đổi không ngừng. Nếu chấp năm ấm là thật, là ta, là của ta… thì khổ, vì danh sắc sẽ hư hoại bất cứ lúc nào!

Nói tâm là nguồn gốc của ác, vì gốc của tâm sẵn chứa tam độc tham, sân, si, lại nữa ngày đêm vọng tưởng tốt xấu luôn tiếp diễn huân tập trong tâm tạo thành ý nghiệp. Nói thân là chỗ chứa nhiều tội lỗi, vì thân là nơi tạo nhiều nghiệp xấu ác qua lời nói (khẩu nghiệp) và hành vi làm khổ mình khổ người (thân nghiệp). Nếu chúng ta thường quán xét như thế, thì dần dần xa lìa nỗi khổ sinh tử.

– Điều giác ngộ thứ hai:  Hiểu rằng càng tham muốn nhiều chừng nào thì thân tâm càng khổ nhiều chừng đó. Phải biết bao nhiêu nỗi lo buồn, cực nhọc cả đời của con người đều do từ lòng tham muốn, khát ái mà ra. Nếu tâm ít ham muốn, ít chạy theo nhu cầu ngũ dục, thì thân tâm sẽ được bình ổn, nhẹ nhàng.

– Điều giác ngộ thứ ba: Giác ngộ rằng tâm người phàm phu luôn đầy vẫy những lậu hoặc, tham khát ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy… Càng dính mắc và nô lệ ngũ dục càng nhiều, thì nghiệp ác  gây ra càng lớn. Các bậc Bồ Tát thì không như thế. Bồ Tát là những vị tu tập để thành Phật. Dù cũng sống lăn lộn trong biển khổ nhưng các Ngài luôn giữ chánh niệm, nghĩ nhớ đến pháp tri túc, sống đạm bạc an vui, để tâm cho việc tu hành phát huy tuệ giác.

– Điều giác ngộ thứ tư: Giác ngộ rằngsự lười biếng khiến con người uể oải, mệt mỏi, lâu ngày  tự tìm thú vui hưởng thụ, dễ sa vào trụy lạc, làm nhiều điều xấu ác. Là người học đạo phải tinh tấn tu tập để xua tan phiền não, hàng phục bốn loại ác ma, ra khỏi ngục tù của năm uẩn và ba giới.  Bốn loại ác ma gồm:

1. Phiền não ma: Là sợi dây trói buộc của tam độc (tham, sân, si) gây não hại thân tâm, phá hoại đường tu đạo.

2. Ngũ ấm ma: Là lục căn, lục trần và lục thức (thập bát giới). Là  tất cả những hiện tượng tinh thần, vật chất xung quanh vây hãm, che lấp trí huệ thanh tịnh, ngăn cản công đức thiện lành không cho phát triển. Nếu người tu chưa nhận ra “Tam giới duyên khởi tánh không”, chấp trước khi thân đạt chư pháp không tướng, thì người đó đang bị ngũ ấm ma khống chế. Nếu quán không tịch, tất cả vạn pháp, hữu vi, hay vô vi đều bất khả đắc, tức thì ma cảnh biến mất.

3. Tử ma: Tử ma, là khi 4 đại phân tán, cái chết ngăn chận sự kéo dài huệ mạng. Hoặc khi phát tâm tu chánh đạo, nửa chừng lâm trọng bệnh mạng chung hoặc bị hại chết. Hoặc lúc tu hành thì sanh tâm sợ chết không được hưởng thụ dục lạc, vội bỏ đạo nửa chừng. Tất cả những hoàn cảnh đó, là do bị tử ma sở nhiếp.

4. Thiên tử ma: Là ma vương ở trong tầng Trời thứ 6 của Dục giới (Tha Hóa Tự Tại), Thiên tử ma rất sợ đệ tử của Phật tu hành đắc đạo lìa khỏi dục giới, nên sai khiến chư quỷ thần quyến thuộc ma tâm đến cám dỗ, xúi giục phá hoại thiện căn phước lành của người tu. Có khi ma quân hiện ra các hình ảnh ghê rợn khủng bố tinh thần người tu. Có khi hiện ra hình ảnh nhu hòa khả ái để quyến rủ người tu. Có khi hiền lành dễ mến, có lúc hung tợn dữ dằn quấy nhiễu làm cho tinh thần người tu rối loạn sợ hãi bất an.

Để đối trị với ma quân nhiễu loạn, hành giả nên tỉnh thức liễu tri tất cả sở hữu kiến, văn, tư tưởng…  đều không thực chất chất tính, bổn lai không tự sanh. Xem tất cả như không có gì, thì ma cảnh biến mất. Chúng ta nhớ lại gương đức Phật Thích Ca trước khi thành đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Giác cũng bị vô số ma quân quấy nhiễu. Cuối cùng tất cả ma quân đều bị đức Phật hàng phục.

– Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới: Là ba cõi sống của chúng sanh. Dục giới là cõi sống của loài người. Loài người là những chúng sinh có thân, có ý thức, và  có lòng tham dục. Sắc giới là cõi sống của loài Trời. Loài Trời là chúng sanh không còn dục vọng, nhưng còn sắc thân vi tế. Vô sắc giới là cõi giới cao hơn, chúng sanh ở cõi này không còn lòng dục cũng không có sắc thân, chỉ còn tinh thần thuần túy mà thôi!

– Điều giác ngộ thứ năm: Phải giác ngộ nguyên nhân của luân hồi sinh tử là vô minh (ngu si), vì thế chúng ta phải noi gương các bậc Bồ Tát học rộng, nghe nhiều về Phật pháp. Hiểu rõ điều đã nghe, rồi phải thực hành, để trải nghiệm thân chứng tâm chứng, phát huy tuệ giác, đạt được biện tài vô ngại, hầu có khả năng giáo hóa mọi người theo tinh thần tự độ, độ tha.

– Điều giác ngộ thứ sáu: Giác ngộ rằng con người sinh ra trong hoàn cảnh nghèo nàn khốn khổ, phần đông thường bị giam hãm trong oán hận và căm thù, do đó họ tạo nhiều nghiệp xấu ác, phải chịu quả khổ. Các bậc Bồ Tát thương xót họ nên thường thực hành hạnh bố thí không phân biệt kẻ thân người sơ. Đối với những người gian ác hay những người đã từng gây phiền não cho mình, các Ngài cũng bỏ qua và đối xử bình đẳng, giúp đỡ họ không phân biệt. Đây gọi là bố thí ba-la-mật.

– Điều giác ngộ thứ bảy: Giác ngộ rằng năm thứ ham muốn: sắc, thanh, hương, vị và xúc pháp (ngũ trần) gây nên tội lỗi và hoạn nạn. Dù là Phật tử tại gia cũng nên né tránh không để những thứ dục vọng này quyến rủ.  Nên nuôi chí nguyện xuất gia. Là người xuất gia, khi vào đời hóa độ chúng sanh nên biết rằng tài sản của người xuất gia chỉ ba y, một bát, tứ sự khác như: thức ăn, thuốc men, y áo, sàng tọa, chỉ là pháp khí vừa đủ nuôi dưỡng tấm thân để tu đạo. Đối với tự thân luôn giữ giới hạnh nghiêm minh, thanh bạch. Đối với chúng sanh một lòng từ bi thương xót.

– Điều giác ngộ thứ tám: Giác ngộ rằng sinh tử như ngọn lửa đang cháy phừng thiêu đốt mọi loài. Con người vì si mê chấp nhận luân hồi sinh tử hết đời này sang đời khác thật vô cùng thống khổ. Biết thế, nên chúng ta lo tu tập để tự giải thoát mình, nhưng không quên noi gương các vị Bồ Tát phát tâm quảng đại, nguyện thay thế chúng sanh chịu khổ và giúp cho họ đạt được cứu cánh Niết-Bàn.

Đó là tám điều mà Phật và Bồ Tát đã làm và đã giác ngộ. Khi thành Đạo rồi, các Ngài trở lại con đường sinh tử để hóa độ chúng sanh.  Các Ngài khai thị hướng dẫn chúng sanh tu tập theo tám điều giác ngộ nêu trên.

Là đệ tử Phật nếu chuyên cần đọc tụng, thực hành tám điều dạy này, sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ dần dần xa lìa, nếu không nói là  sau cùng cũng vĩnh viễn đoạn tuyệt với sinh tử, sống đời an vui.

IV. KẾT LUẬN

Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ. Đọc tụng bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” chúng ta học theo tinh thần từ bi, lấy trí tuệ làm sự nghiệp của chư Phật, chư Bồ tát. Kinh nhắc nhở chúng ta tám điều quan trọng cần phải học hỏi tu tập. Đó là phải luôn quán xét vạn pháp trong đó có tấm thân ngũ uẩn của con người không thực chất tính nên nó vô thường, khổ, không, vô ngã… Giác ngộ về vô thường vô ngã chúng ta sẽ không còn tham cầu mong muốn thỏa mãn ngũ dục cá nhân. Chúng ta học bài thiểu dục tri túc, vui sống đời đạm bạc, nuôi lớn chí nguyện xuất gia.

Học pháp Phật, chúng ta biết rằng vô minh là nguyên nhân đưa đến đau khổ, luân hồi sinh tử, vì vậy chúng ta phải hình thành tuệ giác, qua lộ trình văn-tư-tu, trước hết tìm cách gần gủi các bậc thiện tri thức, nghe giảng Phật pháp, tư duy về Phật pháp, rồi thực hành để trải nghiệm thân chứng, tâm chứng, phát huy trí huệ, biện tài vô ngại, hầu có khả năng để giúp đỡ người khác.

Tóm lại, là cư sĩ hay phàm tăng sinh ra trong thời mạt pháp, chúng ta cùng đi chung trên con đường bụi bặm của thế gian. Tự vấn lòng, hiểu rằng đạo nghiệp chúng ta hãy còn yếu kém, bởi đâu đó trong tâm vẫn còn tham ái, tật đố, ngu si, lười biếng, ích kỷ … Biết như thế, chúng ta cần noi gương các bậc Đại nhân, tâm niệm về tám điều giác ngộ nêu trên, giữ tâm đoan chính, lập chí tu học vững bền, miên mật công phu, để không bị ngũ dục lôi cuốn, hầu nâng cao phẩm hạnh đạo đức giúp ích cho đạo, lợi lạc cho đời, và lấy đó làm tư lương cho con đường tâm linh  tiến đến chân trời giác ngộ giải thoát.

Trước khi chấm dứt bài viết, nguyện cho tất cả mọi người, những ai nghe, thấy, đọc bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” đều phát tâm tu tập để được an vui ngay trong đời thường…

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(An Cư Kiết Xuân 14/2/2023 tại Thiền Viện Chân Như, Navasota, TX)

Chú thích:

(*) Trong bài viết “Nghĩ về 8 điều giác ngộ của bậc Đại Nhân”, tác giả: TT. Thích Phổ Huân ghi nhận theo lời Đại Sư Tinh Vân. (Đại Sư vừa viên tịch tại Đài Loan vào lúc 5 giờ sáng, ngày 05/2/2023 hưởng đại thọ 97 tuổi, 85 năm đại hạ. Chúng con hàng hậu học kính góp lời cầu nguyện cung tiễn đại lão Hòa Thượng về cõi Phật thanh tịnh. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật) .

(**)  Lời đầu sách “Kinh Bát Đại Nhân Giác” của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thanh Từ.

Quan Niệm về “Ngày Lành Tháng Tốt” Trong Đạo Phật

Thích Nữ Hằng Như

Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa qua hơn 1,000 năm dưới ách đô hộ và đồng hóa của người Trung Hoa. Lâu dần việc chọn “ngày lành tháng tốt” ăn sâu vào tâm tưởng quần chúng, trở thành tín ngưỡng trong dân gian.  Ngay cả bây giờ người Việt tha hương sống ở hải ngoại, vào những dịp mua nhà, cất nhà, động thổ, khai trương, xuất hành, dựng vợ, gả chồng cho con, đa số người ta vẫn còn tin vào việc phải chọn “ngày lành tháng tốt”.  Họ tin rằng chọn được ngày tốt thì công việc của họ sẽ được hanh thông, vợ chồng trẻ sống đời hạnh phúc đến răng long đầu bạc. Căn nhà họ mua được, sẽ khiến cho công việc làm ăn của họ được suông sẻ, các thành viên sống trong căn nhà ấy được nhiều may mắn và phúc lộc.

Ngoài việc chọn ngày lành tháng tốt còn phải chọn giờ tốt. Giờ tốt là giờ hoàng đạo. Giờ hoàng đạo là giờ đại cát đại lợi. Theo sự phân chia của các chuyên gia Tử vi, chiêm tinh… thì một ngày có 12 giờ, tương ứng mỗi giờ là 2 tiếng đồng hồ. Trong 12 giờ này sẽ có 6 giờ hoàng đạo và 6 giờ hắc đạo. Giờ hoàng đạo mang lại sự may mắn, còn giờ hắc đạo thì mang lại sự xui xẻo.

Ở đây, người viết không đào sâu vào chi tiết cách xem và nghiên cứu ngày giờ hoàng đạo hay hắc đạo, mà chỉ nêu lên thắc mắc, có phải ngày giờ hoàng đạo đó thực sự tốt lành cho tất cả mọi người trên trái đất này hay không? Nếu có thì tại sao nhiều cặp vợ chồng sau ngày cưới không bao lâu đã đưa nhau ra tòa ly hôn, ly dị, mặc dù trước đó đã được gia đình nhờ các chuyên gia xem tuổi, chọn ngày lành tháng tốt để cử hành hôn lễ. Nếu có, thì tại sao những người làm kinh doanh đã kỷ lưỡng xem ngày giờ tháng tốt tưng bừng dựng bảng khai trương, không bao lâu phải đóng cửa vì thất bại trong việc làm ăn đưa đến phá sản? Nếu tốt, thì tại sao căn nhà được chọn lựa đúng hướng phong thủy, hợp tuổi vợ chồng con cái, mà gia chủ dọn vào ở không bao lâu thì vợ chồng lục đục, con cái hư hỏng, mất hạnh phúc, hoặc là phải dựng bảng bán nhà vì lý do này hay lý do khác?

Trên thực tế, sự nhận thức về vấn đề tốt xấu không ai giống ai. Có khi tốt với người này nhưng có thể xấu đối với người kia. Không thể nói “hôm nay là ngày hoàng đạo thì tất cả mọi người trên trái đất này đều gặp may mắn!”

II. LỜI PHẬT DẠY VỀ “NGÀY LÀNH THÁNG TỐT”

Trong kinh Tăng Chi Bộ I, Phẩm Cát Tường có ghi lại bài kinh ngắn, đức Thế Tôn dạy các Tỷ-kheo về “ngày lành tháng tốt” qua tiểu đề “Buổi Sáng Tốt Đẹp” như sau:

“Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha. Tại đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

Các loài hữu tình nào, này các Tỷ-kheo, vào buổi sáng, thân làm việc thiện, nói lời nói thiện, ý nghĩ điều thiện, các loài hữu tình ấy, này các Tỷ-kheo, có một buổi sáng tốt đẹp.

Các loài hữu tình nào, này các Tỷ-kheo, vào buổi trưa, thân làm việc thiện, nói lời nói thiện, ý nghĩ điều thiện, các loài hữu tình ấy, này các Tỷ-kheo, có một buổi trưa tốt đẹp.

Các loài hữu tình nào, này các Tỷ-kheo, vào buổi chiều, thân làm việc thiện, ý nghĩ điều thiện, các loài hữu tình ấy, này các Tỷ-kheo, có một buổi chiều tốt đẹp.

Này các Tỷ-kheo:

Vầng sao lành, điều lành

Rạng đông lành, dậy lành

Sát na lành, thời lành

Cúng dường bậc Phạm hạnh

Thân nghiệp chánh, lời chánh

Làm các điều chơn chánh

Được lợi ích chơn chánh

Thì được lợi, an lạc

Lớn mạnh trong Phật giáo

Hãy không bệnh, an lạc

Cùng tất cả bà con “ (hết trích)

III. Ý NGHĨA BÀI KINH

Theo lời dạy của đức Phật thì cả một ngày bao gồm sáng, trưa, chiều… nếu chúng ta suy nghĩ những điều thiện lành, nói những lời thiện lành, làm những việc có lợi ích cho chính bản thân và cho mọi người xung quanh, thì suốt một ngày hôm đó chúng ta có được một ngày an lạc hạnh phúc. Đó là chúng ta đã trải qua một ngày lành, tốt đẹp.

Và dù đức Thế Tôn không bàn sâu hơn nữa, chúng ta cũng có thể hiểu rằng nếu chúng ta bắt đầu bằng buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều với ý nghĩ bất thiện, lời nói bất thiện và thân có hành động bất thiện khiến người khác buồn phiền đau khổ thì dĩ nhiên ngày hôm đó chính là ngày xấu của chúng ta.

Như vậy đối với đức Phật trong cuộc sống hằng ngày cũng có ngày tốt và ngày xấu. Nhưng ngày tốt hay xấu do chính chúng ta làm chủ, chứ không có thần linh, mặt trời, hay tinh tú nào ảnh hưởng khiến cho ngày hôm nay là ngày hoàng đạo chắc chắn là ngày tốt, còn ngày kia là ngày hắc đạo chắc chắn là ngày xấu, đối với tất cả mọi người!

IV. ỨNG DỤNG LỜI PHẬT DẠY

            Qua bài pháp ngắn gọn này, chúng ta học được thêm bài học về Nhân Quả. Hễ mình tạo nhân tốt thì mình nhận được quả như ý, tức nhận được sự vui vẻ hạnh phúc (Cúng dường bậc Phạm hạnh/Làm các điều chân chánh/Được lợi ích chân chánh/ Thì được lợi, an lạc? Lớn mạnh trong Phật giáo). Ngược lại, nếu mình làm những việc xấu, vô đạo đức thì trước sau gì quả phiền muộn, đau khổ cũng không buông tha mình.  Cho nên, thay vì tìm cầu chọn lựa ngày tốt từ bên ngoài mang đến, người tỉnh thức tự biết cách chủ động chọn ngày tốt cho chính mình, bằng cách kiểm soát ba nghiệp thân, khẩu, ý, không để tâm suy tưởng những điều bất thiện, khiến cho lời nói và hành động bất thiện theo, tạo nghiệp ác.

Tin sâu nguyên lý Nhân Quả, chúng ta nguyện sống đời đạo đức, giữ giới hạnh, không sát sanh, không lấy của không cho, không giở thói tà dâm, không nói dối, không nói lời tàn ác, hung dữ, không rượu chè say xỉn… Khi hội đủ duyên lành thì hoan hỷ góp phần làm việc phước thiện. Bản thân sống đời đạo đức thì ngày nào cũng là ngày tốt cả!

            Tóm lại, là người Phật tử chúng ta nên gần gủi học giáo pháp (*) từ các bậc thiện tri thức để có sự hiểu biết và suy tư đúng đắn về lời Phật dạy. Từ đó niềm tin của chúng ta đối với Tam Bảo ngày một sâu sắc hơn, gọi là Chánh tín.

Khi có niềm tin vào Tam Bảo vững chắc,  trước khi khởi sự làm bất cứ việc gì, người Phật tử có Chánh kiến sẽ không xem việc coi “ngày lành tháng tốt” là tối cần thiết. Người đó vận dụng Chánh tư duy một cách sáng suốt để thấy việc làm sắp tới của mình là đúng hay không đúng? Đúng ở đây là xem kế hoạch đưa ra có hợp lý, hợp thời, và việc làm này mang lợi ích không những cho mình mà còn lợi lạc cho người xung quanh… thì vui vẻ tiến hành. Bên cạnh đó Phật dạy lấy việc sống đạo đức, việc gieo trồng phước báo như bố thí, cúng dường, giúp đỡ mọi người trong khả năng, làm nền tảng hy vọng cho công việc được viên thành. Đương nhiên việc thành tựu nhiều hay ít còn tùy theo tuệ giác và phước đức của mỗi người, chứ không phải do coi ngày tốt là thành công. Ngày lành tháng tốt đối với người Phật tử là ngày đẹp trời, thuận lợi cho mình và cho mọi người tham dự, có thể xem là một trong những điều kiện góp phần vào kết quả chứ không phải là yếu tố tối quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

Thiền Viện Chân Như, Navasota, TX

(An Cư Kiết Xuân 02/3/2023)

(*) Bát Chánh Đạo: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh niệm, Chánh Định.

Thấy Pháp là thấy Phật

Thích Nữ Hằng Như

I. DẪN NHẬP

“Ai thấy Pháp người ấy thấy Ta, ai thấy Ta người ấy thấy Pháp”. Đây là lời dạy của đức Phật dành cho tỷ-kheo Vakkali. Lời dạy này được ghi lại trong Kinh Tiểu Bộ và Kinh Tương Ưng; do Hòa thượng Minh Châu dịch từ tiếng Pàli sang tiếng Việt. Trước khi tìm hiểu lời dạy trên của đức Phật, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về ngài Vakkali một chút.

II. “BÀ-LA-MÔN VAKKALI” XUẤT GIA THEO PHẬT

Kinh Tiểu Bộ tập III, Phẩm Trưởng Lão Tăng Kệ, có kể lại câu chuyện về tôn giả Vakkali.  Tôn giả sanh trưởng và lớn lên ở Sàvatthi, thuộc dòng họ Bà-la-môn. Trước khi xuất gia, Vakkali đã là người nổi tiếng thuần thục ba tập kinh điển Vệ-đà. Trong một lần nghe đức Phật thuyết pháp, Vakkali bị hình tướng đẹp đẽ của đức Phật hớp hồn. Thế là Vakkali liền xin xuất gia theo Phật. Do mục đích xuất gia không phải tìm đến với Chánh pháp mà chỉ vì tâm hồn của Vakkali bị trói buộc bởi sắc pháp và thanh pháp của đức Phật, nên ngoài giờ ăn uống, tắm rửa, tôn giả Vakkali dành toàn thời gian để chiêm ngưỡng đức Phật chứ không tập trung vào việc tu tập để thoát khổ, giác ngộ, giải thoát.

Tuy bậc Đạo Sư biết rõ điều này, nhưng vì muốn chờ đợi công phu thiền quán của tôn giả được chín muồi thì tự dưng ông sẽ thay đổi nhận thức, nên đức Phật đã không nói gì trong suốt một thời gian dài. Thế nhưng, ngày này qua ngày khác, đức Phật nhìn thấy tâm tính của Vakkali vẫn không có chút gì biến chuyển. Cho nên Ngài nghĩ rằng: “Tỷ-kheo này, nếu không bị xúc động mạnh sẽ không thức tỉnh”. Vào một ngày cuối an cư mùa mưa, đức Phật gọi Vakkali đến, rồi nghiêm nghị bảo:  “Này Vakkali, ông hãy đi đi”…  Nghe đức Phật nói như thế, tôn giả Vakkali buồn rầu ra đi, mang theo trong lòng nỗi đau khổ tột cùng. Thâm tâm ông nghĩ rằng nếu không được gặp lại bậc Đạo Sư thì cuộc đời của ông không còn một chút ý nghĩa nào nữa. Ngay lúc đó, ông nuôi ý định gieo mình xuống vực núi Linh Thứu tự tử.

Đức Phật đọc được ý nghĩ của Vakkali, đương nhiên là Ngài không muốn tôn giả Vakkali tự mình phá hoại những điều kiện chứng được thánh quả trong đời này, nên khi tôn giả định lao xuống vực, đức Phật liền xuất hiện đưa tay về phía ông và nói: “Hãy đến đây, này tỷ-kheo, hãy đến!”. Nghe đức Thế Tôn gọi, tôn giả Vakkali rất lấy làm sung sướng. Bằng giọng thổn thức, tôn giả hỏi Ngài: “Như Lai không bỏ con”? Đức Thế Tôn trả lời: “Ta chưa bao giờ bỏ ông, chỉ có ông mới bỏ ông. Ta đã lập bày phương tiện giúp ông khai mở tâm trí đón nhận giáo pháp, nhưng ông không chịu mở tâm ra, tự giam mình trong ích kỷ si mê. Đó không phải là ý muốn của Như Lai.”

Bấy giờ Vakkali mới bừng tỉnh, ăn năn sám hối và từ đó thoát ra khỏi lưới ái, quyết tâm nghe lời Phật dạy, siêng năng tu tập thiền quán, sau cùng cũng thành tựu thánh quả.

III. “ TÔN GIẢ VAKKALI” BỆNH NẶNG

Kinh Tương Ưng,  Phẩm Trưởng Lão, kể lại giai đoạn tôn giả Vakkali trong thời gian bị bệnh nặng. Tôn giả đã nhờ thị giả đến chỗ đức Thế Tôn đang trú tại Tu viện Trúc Lâm, thuộc thành Vương Xá đảnh lễ và thỉnh Ngài đến để tôn giả Vakkali có cơ hội được gặp lại Ngài lần cuối.  Và đức Phật đã nhận lời. Nguyên văn đoạn kinh này như sau:

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.

2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Vakkali trú tại nhà một thợ gốm, đang bị bệnh, đau đớn, trầm trọng.

3) Rồi Tôn giả Vakkali gọi những người thị giả:

— Đến đây, các Hiền giả! Hãy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: “Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Vakkali bị bệnh, đau đớn, trầm trọng; (Vakkali) cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: “Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn vì lòng từ mẫn hãy đi đến Tỷ-kheo Vakkali”

4) Thưa vâng, Hiền giả.               

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Vakkali, đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

— Tỷ-kheo Vakkali, bạch Thế Tôn, bị bệnh, đau đớn trầm trọng. Vị ấy cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và có thưa như sau: “Lành thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn vì lòng từ mẫn hãy đi đến Tỷ-kheo Vakkali”.

5) Thế Tôn im lặng nhận lời.” (hết trích)

                                 IV. ĐỨC PHẬT THĂM HỎI NGƯỜI BỆNH

Tôn giả Vakkali nằm trên giường, được đức Phật ân cần thăm hỏi bệnh tình của ông. Rằng là tôn giả có chịu đựng được không? Cơn đau có giảm bớt hay không? Tôn giả Vakkali cho Ngài biết là ông không chịu đựng được nữa vì căn bệnh của ông ngày một nặng hơn, đã khiến ông đau đớn kịch liệt. Nguyên văn kinh ghi lại như sau:

6) Rồi Thế Tôn đắp y, cầm y bát, đi đến Tỳ-kheo Vakkali.

7) Tôn giả Vakkali thấy Thế Tôn từ xa đi đến, thấy vậy liền cố gắng từ giường ngồi dậy.

8) Thế Tôn nói với Tôn giả Vakkali:

— Thôi Vakkali, Ông chớ có cố gắng từ giường ngồi dậy. Có chỗ ngồi đã soạn sẵn, Ta sẽ ngồi trên chỗ ngồi ấy.

Rồi Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ ngồi đã soạn sẵn.

9) Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với Tôn giả Vakkali:

— Ông có kham nhẫn được không? Ông có chịu đựng được không? Có phải khổ thọ tổn giảm, không tăng trưởng? Có phải có những dấu hiệu tổn giảm, không phải tăng trưởng?

— Bạch Thế Tôn, con không có thể kham nhẫn! Con không có thể chịu đựng! Khổ thọ kịch liệt tăng trưởng nơi con, không có tổn giảm. Có những dấu hiệu tăng trưởng, không có tổn giảm.” (hết trích)

Sau khi nghe tôn giả Vakkali cho biết căn bệnh của ông ngày một nặng hơn và ông không thể chịu đựng được nữa. Đức Phật mới hỏi tôn giả Vakkali có gì phân vân và hối hận hay không? Chỗ nầy chúng ta có thể hiểu đức Phật muốn tạo cơ hội giúp tôn giả Vakkali giải tỏa những nội kết phiền muộn còn dính mắc trong lòng. Quả thật, tôn giả Vakkali đã thú nhận với đức Thế Tôn là ông hiện có phân vân và hối hận rất nhiều. Đức Thế Tôn hỏi có phải tôn giả Vakkali tự trách mình đã phạm giới luật hay chăng? Tôn giả thưa với Ngài là không có. Đức Thế Tôn lại hỏi ông không có gì tự trách về giới luật thì điều gì làm ông phân vân hối hận? Tôn giả Vakkali trả lời nỗi phân vân hối hận của ông là vì thân mang bệnh nặng khiến ông không thể đến để được trông thấy đức Thế Tôn. Nguyên văn kinh ghi lại như sau:

 10) — Này Vakkali, ông có gì phân vân, hối hận không?

— Bạch Thế Tôn, thật sự con có nhiều phân vân, có nhiều hối hận!

11) — Này Vakkali, ông có gì tự trách mình về giới luật không?

— Bạch Thế Tôn, con không có gì tự trách mình về giới luật.

12) – Này Vakkali, nếu ông không có gì tự trách mình về giới luật, vậy ông có gì phân vân, có gì hối hận?

— Đã từ lâu, bạch Thế Tôn, con muốn đến để được thấy Thế Tôn. Nhưng thân con không đủ sức mạnh để được đến thấy Thế Tôn. (hết trích)

                              V.  “AI THẤY PHÁP, NGƯỜI ẤY THẤY TA…”

Khi nghe tôn giả Vakkali cho biết đã từ lâu tôn giả ôm nỗi phân vân và hối hận vì không được nhìn thấy tôn nhan đức Phật. Ngài liền quở:

“13.- Thôi vừa rồi, này Vakkali, có gì đáng thấy đối vớicái thân hôi hám này. Này Vakkali, ai thấy Pháp, người ấy thấy Ta. Ai thấy Ta, người ấy thấy Pháp. Này Vakkali, đang thấy Pháp là thấy Ta. Đang thấy Ta là thấy Pháp”

Sau câu nói quan trọng này, đức Phật liền giáo giới tôn giả Vakkali bài pháp “Ngũ Uẫn là Vô thường”. Ngài hỏi:

“ 14. — Này Vakkali, Ông nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?

  — Là vô thường, bạch Thế Tôn.

  — Cái gì vô thường, là khổ hay là lạc?

 — Là khổ, bạch Thế Tôn.

— Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: “Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi”?

— Thưa không, bạch Thế Tôn.

— Thọ… Tưởng… các Hành… Thức là thường hay vô thường?

— Là vô thường, bạch Thế Tôn.

— Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

— Là khổ, bạch Thế Tôn.

— Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: “Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi”?

— Thưa không, bạch Thế Tôn. (hết trích)

Bài pháp “Ngũ Uẩn là vô thường” nhằm nhắc nhở tôn giả Vakkali khi nhìn thấy đức Thế Tôn, thấy ngay bài Pháp “Ngũ Uẩn là vô thường”, tức thấy Pháp thân của đức Thích Ca Mâu Ni chứ không phải thấy sắc pháp của Ngài, bởi vì dù cho sắc thân của  đức Phật có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp khác hẳn với người thường, nhưng cũng không tránh khỏi quy luật biến dịch. Cho nên, ai chiêm ngưỡng dung nhan, hình tướng của đức Phật, nhận thấy bài Pháp Vô Thường trên người Ngài, thì mới thật sự thấy Ngài. Đó là ý nghĩa câu: thấy Pháp là thấy Ta”. Ta đây là đức Phật.

Ngoài ra, ở đây, chúng ta có thể hiểu, nếu tôn giả Vakkali nhận ra tấm thân ngũ uẩn của ông vô thường, khổ, vô ngã, luôn chịu sự biến hoại và nhận ra nó không phải là của ông, là ông, hay tự ngã của ông, thì ông đã thấy Pháp, mà đang thấy Pháp tức đang thấy đức Phật, không cần phải đi tìm kiếm đức Phật bằng xương bằng thịt ở đâu xa! Tóm lại, những ai hiểu Pháp, thể nhập Pháp, người ấy đã nhìn thấy Phật! Những câu trả lời của tôn giả Vakkali ghi lại trong kinh cho thấy ngài đã thâm nhập những lời Phật dạy.

Đức Phật đi đến kết luận: “– Do vậy, ở đây bậc Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc, nhàm chán đối với thọ, nhàm chán đối với tưởng, nhàm chán đối với hành, nhàm chán đối với thức. Do nhàm chán vị ấy ly tham. Do ly tham vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: “Ta đã được giải thoát”.  Vị ấy biết “sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.” (hết trích)

          Sau khi giáo giới bài pháp Ngũ Uẩn là vô thường cho tôn giả Vakkali, đức Phậtrời nơi nàyđi về phía núi Linh Thứu.

VI. CHÚNG TA HỌC ĐƯỢC GÌ TỪ THÁNH NGÔN

“… CÁI THÂN HÔI HÁM NÀY…” ?

Đức Phật quở tôn giả Vakkali rằng: “… có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này… ”. Chúng ta hiểu rằng đức Phật nói thế là có ý nhắc nhở tôn giả Vakkali đừng mê đắm cái thân vật chất.  Vật chất là một phần của con người. Con người không tự dưng mà có. Nó kết hợp bởi năm yếu tố: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Gọi chung là ngũ uẩn. Ngũ uẩn hay con người gồm hai phần: Vật chất và tinh thần. Vật chất hay sắc do đất, nước, gió, lửa hợp lại mà thành. Còn tinh thần hay tâm thì do thọ, tưởng, hành, thức kết hợp mà nên.

Con người do nhiều yếu tố hợp lại mà thành, nên nó không thực chất tính. Vì không thực chất tính nên nó không vững bền, nó thay đổi, biến dịch theo thời gian gọi là vô thường. Nếu chấp ngũ uẩn là của ta, là ta hay là tự ngã của ta, thì khi ngũ uẩn thay đổi, biến hoại… tâm khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não… trong kinh gọi là khổ uẩn.

–  Tìm hiểu cụm từ “Cái thân hôi hám”, chúng ta sẽ thấy lời đức Phật phátbiểu thật chính xác không sai trái một chút nào.  Quán thân một cách tỉ mỉ chúng ta nhận thấy thân con người vốn cấu tạo bằng những chất không được sạch. Khi đứa bé mới sinh ra đời còn nằm trong nôi, ai đến thăm cũng khen bé xinh xắn thơm tho mùi sữa. Khi lớn lên những giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý dần dần điều hòa với các bộ phận trong nội tạng, tiết ra những chất thật là dơ bẩn, hôi hám. Nếu không tắm rửa, giữ vệ sinh sạch sẽ, thì không ai dám đến gần. Cụ thể như:

– Về mắt: Qua một đêm ngủ dậy, hai mắt tiết ra chất nhừ đóng thành cục ở khóe mắt gọi là ghèn trông thật gớm ghiếc.

– Về tai: Hai lỗ tai tiết ra chất dơ gọi là ráy tai, ráy tai khô còn đỡ, có khi bị ráy tai ướt, hay bị nhiễm trùng chảy mũ đương nhiên là hôi thối vô cùng.

– Về mũi: Hai lỗ mũi thường chảy nước, có khi đặc sệt trông thật gớm ghiếc.

– Về miệng: Nếu không súc rửa sạch sẽ thì cái miệng là nơi rất dơ, nước dãi, nước bọt, có khi bị đàm xanh, đàm vàng từ trên mũi chảy xuống thật bẩn thỉu.

– Về thân: Trên thân (da) có nhiều lỗ chân lông thường tiết mồ hôi khi nóng nực. Có người hôi nách, nếu không thường xuyên tắm rửa và bôi dầu khử mùi thì không ai dám đứng gần. Ngay cả mái tóc trên đầu, nếu không gội đầu hằng ngày thì tóc hôi hám, dơ bẩn, là cái ổ của “gia đình chí” sinh sống.

Tóm lại, những chất vừa kể trên, không chất nào trong sạch, thơm tho. Đó là chưa kể những thứ khác như ruột, gan, phổi, mật, lá lách, đàm, mũ, dãi, nhớt trong nội tạng , còn “bất tịnh” đến cỡ nào?

Ở đây tuy kể ra sự hôi hám gớm ghiếc của thân nhưng không phải vì vậy mà chúng ta xem thường, hủy hoại nó. Trong kinh nói “được sanh làm người rất khó”, nên tuy thân dơ bẩn như thế nhưng bên trong còn có phần tâm rất quý giá. Vì vậy, chúng ta cần chăm sóc giữ gìn cho thân sạch sẽ khỏe mạnh, để tâm gá vào thân mà tu tập, hầu thoát khỏi luân hồi sinh tử. Bằng không, khi thân hoại mạng chung, tái sanh theo nghiệp lực mang cái thân khác, có khi không phải thân người, mà là thân thú vật, còn dơ bẩn đến cỡ nào?

VII. THỰC TẬP QUÁN “NGŨ UẨN LÀ VÔ THƯỜNG”

Khi cha mẹ sinh ra, rồi lớn lên, trưởng thành, vài chục năm sau bắt đầu già nua, bệnh tật và cuối cùng phải chết. Quá trình sinh, trụ, hoại, diệt ấy diễn ra trong từng sát-na, đó là vô thường. Quán thân thể vô thường như thế, không phải để thấy cái thân thể vô thường không bền chắc rồi mình bỏ bê hay hủy hoại nó. Hiểu như thế là hiểu sai về “giáo lý vô thường”. Theo quan điểm nhà Phật, nếu chấp thân này thường còn, thì đó là tà kiến, ngược lại nếu chấp thân này đoạn diệt cũng bị xem là tà kiến. Đức Phật dạy chúng ta hãy quán chiếu “ngũ uẩn là vô thường” vì nó rất dễ mất, để chúng ta đừng chấp thủ, mê đắm mà khổ đau.

Thực tập bài pháp “Ngũ uẩn là vô thường” bằng cách quán thân tâm này là huyễn, là giả, nó không phải của mình, là mình, hay tự ngã của mình, để khi thân hoại mạng chung, mình “rút tâm” khỏi “pháp ngũ uẩn”, ra đi bình thản không một chút tiếc nuối.

Muốn thực tập thành công bài pháp này để được thoát khổ, giác ngộ, giải thoát, chúng ta phải bắt đầu bằng bài học “Tứ Thánh đế”. Đó là bài học về bốn chân lý khổ, tập, diệt, đạo để biết cách tu tập. Và quan trọng hơn nữa là bài học về chính con người của mình. Đó là bài học “Vô ngã tướng”. Con người không thực chất tính vì nó kết hợp bởi năm nhóm sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nên đặc tính của nó là vô thường, khổ, vô ngã. Nếu không nhận ra bản chất vô thường, khổ, vô ngã của Ngũ uẩn, cho nó là thật, là thường hằng thì con người mãi mãi khổ đau vì bị cuốn trôi trong vòng luân hồi sinh tử không bao giờ thoát khỏi.

VIII. KẾT LUẬN

Sau cùng, trở lại đề tài “Ai thấy Pháp là thấy Phật…” chúng ta biết rằng, nhằm giúp tôn giả Vakkali không luyến ái với tấm thân ngũ uẩn bệnh hoạn đang hành hạ mình, đức Phật nhắc lại bài Pháp “Ngũ Uẫn là Vô Thường, là Khổ, là biến hoại”. Kết quả, tôn giả Vakkali đã xác nhận là ngài không một chút nghi ngờ gì về những bài pháp của đức Thế Tôn truyền giảng. Chính vì không nghi ngờ nên tôn giả đã nhàm chán, không còn lòng dục, lòng tham, lòng ái đối với năm yếu tố vô thường này, ngài đã dứt khoát không xem nó “là của Ta, là Ta, là tự ngã của Ta”. Tôn giả Vakkali thấy Ngũ Uẩn như thế là thấy Pháp, mà “thấy Pháp tức là thấy Phật, thấy Phật tức là thấy Pháp” vậy!

                                                         THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

                                  (Mùa an cư, Thiền viện Chân Như Navasota, Texas)

                                                                March 06-2021

Tài liệu:

– Tương Ưng Bộ Kinh, Tập III; Chương I: Tương Ưng Uẩn; Phẩm Trưởng Lão : “Vakkali 1-16”; bản tiếng Việt do cố HT. Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pãli.

– Tiểu Bộ Kinh, Tập III, Chương V; Phẩm Năm Kệ; Trưởng Lão Tăng Kệ: “Vakkali-205”; bản tiếng Việt do cố HT. Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pãli.

Phật Dạy Các Pháp Hạnh Phúc cho Cư Sĩ tại Gia

Thích Nữ Hằng Như

I. DẪN NHẬP

Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc.  Hạnh phúc là gì? Các nhà tâm lý học ngày nay mô tả hạnh phúc là một trạng thái tâm lý tích cực của con người được thể hiện bởi cảm giác vui vẻ, thích thú, hài lòng trước những đầy đủ về vật chất và thoải mái về tinh thần. Nó khiến bản thân người ta cảm thấy yêu đời hơn.

Theo cách viết, người Trung Hoa định nghĩa hạnh là may mắn, còn phúc là sự đầy đủ phước báo.  Những ai gặp nhiều may mắn, thành công trong nghề nghiệp, hài hòa trong tình yêu, đằm thắm trong hôn nhân được xem như người có hạnh phúc. Ngược lại người bất hạnh là người không may mắn, tình cảm hôn nhân gảy đổ, công ăn việc làm luôn thất bại, luôn phiền não.

Có cách định nghĩa khác, hạnh là niềm vui, vui trong môi trường sống dù giàu hay nghèo không quan trọng, phúc là phước báo có được, nhưng không dành riêng cho mình mà mang chia xẻ cho người khác, và như vậy là cảm thấy mãn nguyện, là có được niềm vui, là có được niềm hạnh phúc.

Mặc dù đức Phật đã từng dạy, tất cả mọi thứ xảy ra trên cõi đời này đều không bền vững, nhưng trước mưu cầu hạnh phúc là quyền lợi chính đáng của mỗi người, Ngài cũng phương tiện cho rằng để có hạnh phúc thì con người phải hoàn thiện hai phương diện. Thứ nhất là phần thân thể phải khỏe mạnh. Thứ hai là phần thọ, thọ ở đây là cảm xúc phải được bình an. Ngoài ra yếu tố từ bi, tức tình thương yêu, đưa đến hành động, lời nói… bố thí, san sẻ, chăm sóc khiến chúng sanh vui vẻ hạnh phúc cũng làm cho người ta hạnh phúc.

Tóm lại, hạnh phúc là điều mà tất cả mọi người đều mong cầu tìm kiếm. Không phải chỉ bây giờ người ta mới mong cầu hạnh phúc, mà từ ngày xưa vào thời đức Phật còn tại thế, người ta cũng mong cầu có được an lạc hạnh phúc. Dưới đây là những điều đức Phật dạy cho các đệ tử tại gia tìm cầu khả lạc, khả hỷ, khả ý trong đời sống hằng ngày cũng như tương lai, tiêu biểu là bài dạy trưởng lão Cấp-Cô-Độc.

                                  II. BỐN PHÁP HẠNH PHÚC TRONG HIỆN TẠI

Đáp ứng lời yêu cầu của trưởng giả Anathapindika (Cấp-Cô-Độc) làm thế nào để cư sĩ tại gia có được an lạc hạnh phúc trong hiện tại và tương lai? Đức Phật đã giảng như sau:

 “Có bốn loại an lạc, này gia chủ, người tại gia thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn? Đó là hạnh phúc hay lạc sở hữu, lạc thọ dụng, lạc không mắc nợ, lạc không phạm tội.

1) Hạnh phúc sở hữu: Tài sản thâu hoạch tích lũy được bằng  sự nỗ lực siêng năng làm việc đúng pháp. Khi nghĩ đến sự sở hữu tài sản một cách chân chính như vậy, người cư sĩ cảm thấy hạnh phúc.

2) Hạnh phúc thọ dụng: Người cư sĩ tại gia thọ hưởng những tài sản thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn, tích lũy được do sức mạnh cánh tay, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, thâu hoạch đúng pháp. Dùng tài sản này nuôi bản thân, nuôi gia đình và làm các việc phước đức. Khi nghĩ đến sự thọ hưởng những tài sản tự tạo ra như vậy, người cư sĩ cảm thấy hạnh phúc.

3) Hạnh phúc không nợ nần: Khikhông bị mắc nợ ai dù ít hay nhiều. Người cư sĩ tại gia cảm thấy vui vẻ, thoải mái, hạnh phúc.

4) Hạnh phúc không phạm tội:  Ở đây vị Thánh đệ tử thành tựu thân hành không phạm tội, thành tựu khẩu hành không phạm tội, thành tựu ý hành không phạm tội. Khi nghĩ đến những thành tựu này vị ấy được lạc, được hỷ.

Trong bốn điều hạnh phúc này, điều hạnh phúc không lỗi lầm là điều hạnh phúc có giá trị cao nhất.  Phật dạy rằng giá trị của ba điều hạnh phúc sở hữu tài sản, hưởng thụ và không mắc nợ, chỉ bằng 1/16 giá trị hạnh phúc không phạm tội qua bài kệ dưới đây:Được lạc không mắc nợ/ Nhớ đến lạc sở hữu/ Người hưởng lạc tài sản/ Với tuệ, thấy như thị / Do thấy vị ấy biết / Sáng suốt cả hai phần / Lạc vậy chỉ bằng được / Bằng một phần mười sáu / Lạc không có phạm tội.”

                            III. BỐN PHÁP HẠNH PHÚC TRONG TƯƠNG LAI

Đáp ứng nhu cầu tìm kiếm khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời, đức Như Lai đưa ra bốn pháp như sau:

1) Đầy đủ niềm tin: Là thành tựu chánh tín, có đức tin đối với Tam bảo, nhất là tin tưởng vào sự giác ngộ của Như Lai. Ngài là bậc A-La-Hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.  Này gia chủ đây là đầy đủ lòng tin.

2) Đầy đủ giới đức: Thành tựu giới đức, từ bỏ sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, đắm say rượu men, rượu nấu. Này gia chủ đây gọi là đầy đủ giới đức.

3) Đầy đủ bố thí: Vị Thánh đệ tử sống ở nhà cùng gia đình, tâm không bị cấu uế xan tham chi phối, bố thí rộng rãi, với lòng rộng mở, sẳn sàng  chia xẻ khi được yêu cầu. Này gia chủ, đây gọi là đầy đủ bố thí.

4) Đầy đủ trí tuệ: Tâm không bị tham, sân, nghi, hôn trầm thụy miên, trạo cử hối quá … chi phối. Thành tựu trạch pháp, đầy đủ pháp học pháp hành, thấy rõ sự sinh diệt của các pháp, bước vào dòng minh kiến, đầy đủ trí tuệ.

Thành tựu bốn pháp này, vị Thánh đệ tử luôn được khả lạc, khả hỷ, khả ý tức an lạc hạnh phúc trong hiện tại và cả trong tương lai.

IV. ỨNG DỤNG LỜI PHẬT DẠY

 Bốn điều đưa đến an lạc hạnh phúc cho người tại gia trong đời sống hiện tại, mà đức Phật đã thuyết dạy từ hơn mấy ngàn năm trước, đến nay vẫn còn giá trị. Nội dung bốn điều hạnh phúc đó cho thấy đức Phật là người hiểu rõ tâm lý của quần chúng. Ngài biết rằng con người muốn sống an vui phải được đáp ứng đầy đủ về mặt vật chất lẫn tinh thần, tức phải đủ ăn, đủ mặc cho bản thân mình, gia đình mình. Rải rác trong các bài kinh, đức Phật nêu rõ cái nghèo là nguồn gốc của thói hư, tật xấu, của những hành động vô đạo đức và tội lỗi như trộm cắp, dối trá, bạo động, thù hằn, độc ác. Do đó trong ba điều kiện đầu, Ngài hướng dẫn người Phật tử tại gia việc ổn định tài chánh như một điều kiện căn bản tạo nên hạnh phúc gia đình. Ngoài ra, tinh thần phải được bình an thì con người mới thực sự được hạnh phúc.

Tuy nhiên, học Phật chúng ta cũng cần ghi nhớ, trên cơ sở tuệ giác giải thoát khổ đau sinh tử, đức Phật cho rằng tài sản, của cải vật chất không phải là cứu cánh của cuộc đời, không phải là tài sản thừa tự của kẻ xuất gia tầm cầu giác ngộ, nhưng cũng cần phải có những điều kiện vật chất tối thiểu nuôi thân, mượn thân tu tập để được thành công trong đời sống tâm linh.

 Muốn sở hữu một số tiền bạc, tài sản hay của cải nào đó, đức Phật dạy người cư sĩ phải nỗ lực làm việc, cố gắng học hỏi trau dồi nghề nghiệp để đạt kết quả tốt. Đồng tiền chân chánh kiếm được, để nuôi gia đình bằng sức lực, bằng kiến thức của bản thân mình chính là niềm vui, niềm hạnh phúc của mình. Và dĩ nhiên, mình cảm thấy hạnh phúc khi được tự do hưởng thụ tài sản do mình tạo ra. Bên cạnh đó, việc không bị nợ nần khiến đời sống của mình không bị trải qua những ngày tháng lo âu, hồi hộp, sợ chủ nợ đến quấy rầy, đó chính là những ngày tháng an vui hạnh phúc.  Muốn không rơi vào tình trạng mắc nợ, trong nhiều bài kinh đức Phật nhắc nhở chúng ta mặc dù làm việc có được tài sản dư thừa cũng nên thực hành pháp “thiểu dục tri túc”, phải giữ gìn, tiết kiệm bằng cách chi tiêu vừa phải, cần để dành lại một phần nào đó để phòng ngừa mai sau, vì không ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra! Ở đây chúng ta cần nhớ là tiết kiệm, chứ không phải bủn xỉn, keo kiệt, không dám xử dụng cho bản thân hay giúp đỡ những người cần giúp đỡ. Vì nếu không khéo cân bằng việc chi tiêu, xử dụng tiền bạc hợp lý, chúng ta sẽ biến thành kẻ nô lệ của đồng tiền.

Ba pháp đầu tiên đức Phật dạy con người ta làm thế nào để có được hạnh phúc về mặt vật chất. Nhưng pháp thứ tư mới là pháp được đức Phật xem là có giá trị nhất. Vì pháp này Ngài dạy người cư sĩ tại gia phải tu tập giữ ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh. Nghĩa là lời nói, hành vi, cử chỉ, và tâm ý luôn trong sạch không gây lỗi lầm, đồng nghĩa với việc sống trong cộng đồng xã hội mình là con người biết tôn trọng nguyên tắc, luật lệ nơi quốc gia mình cư trú, mình không phạm tội nên được sống yên ổn. Về mặc tâm linh nghiệp báo, mình giữ ba nghiệp thanh tịnh không gây lỗi lầm, không gây nhân xấu, thì cuộc sống của mình cũng được bình an hạnh phúc.

Riêng bốn pháp đưa đến an lạc trong tương lai dành cho những ai có niềm tin sâu sắc vào Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng).  Thứ nhất tin rằng đức Như Lai là đấng chứng ngộ toàn giác, là bậc Thầy của trời người. Tin rằng Pháp Phật dạy là chân lý đưa con người đến giải thoát giác ngộ. Tin rằng các vị thánh Tăng là những vị xuất gia tu hành xa lìa ác pháp, tiếp tục đưa chánh pháp đến với mọi người.

Tin sâu Tam Bảo, người Phật tử đã quy y, nguyện thọ và tuân giữ  năm giới. Đó là từ bỏ sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, xử dụng những chất ghiền nghiện như như sì-ke, ma túy hay cồn rượu. Những giới này chính là hàng rào ngăn cản người Phật tử phạm những lỗi lầm đưa đến khổ đau.  

Đạo Phật là đạo Từ Bi và Trí Tuệ, nên người con Phật chỉ sống đạo đức thôi chưa đủ, mà phải tu tập phát huy tinh thần từ bi và trí tuệ. Từ bi là sống mở lòng thương xót mọi người mọi loài không phân biệt. Hành động tích cực để phát huy lòng từ bi là thực hành hạnh Bố thí. Muốn phát huy trí tuệ, hành giả phải tìm cách gần gũi các bậc thiện tri thức để trạch pháp, học pháp, tư duy về pháp. Nghe và hiểu về bốn sự thật: Khổ, nguyên nhân của Khổ, Khổ diệt và con đường dẫn đến Khổ diệt. Nghe và hiểu về sự thật duyên sinh của mọi hiện hữu. Nghe và hiểu về dục và các pháp chướng ngại giải thoát. Nghe và hiểu về Ngũ thủ uẩn. Nghe và hiểu về thiền quán, thiền định, như lý tác ý làm lành lánh dữ v.v…  để sau cùng nhận chân ra hạnh phúc an lạc ở đời chỉ phù du, huyển tạm, bởi nó đòi hỏi nhiều điều kiện mới có, nên nó vô thường, khổ, không, vô ngã. Từ đó, chúng ta sẽ vượt qua, không còn ý muốn tìm cầu những thứ phù du trong thế giới hiện tượng, mà tinh tấn tu hành mưu cầu một hạnh phúc siêu việt tịch tịnh giải thoát Niết-bàn ngay bây giờ và ở đây, đồng nghĩa là hạnh phúc miên viễn.

Trở lại vấn đề an lạc hạnh phúc. Là người Phật tử tại gia sống trong thế giới tương đối,  người nào thành tựu cả tám điều nêu trên được xem như là hạng người cư sĩ tối thắng với nhiều ưu điểm đáng đề cao như tiền bạc của cải kiếm được một cách hợp pháp bằng chính sức lao động hay kiến thức của mình, biết chia xẻ tạo phước, thọ dụng chừng mực, không tham đắm, nhiễm trước, thấy được nguy hiểm của lòng tham bằng trí tuệ, người đó xứng đáng được hưởng an lạc hạnh phúc trong cuộc đời này….

 THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

Thiền Viện Chân Như, Navasota, TX.

     (An Cư Kiết Xuân 22/2/2023)

Xuân Về Thử Tìm Hiểu Ba Thân trong Phật Giáo

Thích Nữ Hằng Như

Những ngày cuối năm, thời gian mọi nơi chừng như ngưng đọng để chào đón một mùa Xuân tương lai tươi đẹp, hoa nở muôn màu cùng nhau khoe sắc thắm dịu dàng, mỗi loài hoa một thứ, đang nhã hương thơm đậm đà hay thoang thoảng, hoà quyện trong không gian thanh mát, khiến lòng người phút chốc tạm quên đi những lo toan mỏi mệt đời thường.

Ở nơi này, trong căn phòng nhỏ, trên bàn thờ Phật thường có hai chậu hoa cúc, hai ngọn đèn lưu ly chiếu sáng và ba chén nước nhỏ tinh khiết. Đức Phật ngồi trên đó một mình với dáng vẻ bình thường lặng yên cố hữu, ấy vậy mà đối với người viết thì Ngài không bình thường chút nào. Chỉ là bức tượng thôi, mà sao mình vẫn thấy sự trang nghiêm uy nghi không thể nghĩ bàn. Chỉ là bức tượng thôi, mà sao mỗi lần chiêm ngưỡng mình cảm thấy trong lòng dâng lên một niềm kính trọng vô biên. Chỉ là bức tượng thôi, mà sao mình cảm thấy bản thân mình nhỏ bé vô cùng trước đôi mắt chứa đầy vẻ từ bi đó. Chỉ đôi mắt khép hờ mà bao trùm khắp không gian, chứa đựng một tâm Không, mà lại sinh ra vạn pháp. Thật là khó nghĩ bàn.

            Trước tướng mạo trang nghiêm sáng toả trí tuệ và lòng từ bi rộng lớn như hư không đó, người viết liên tưởng đến những thuật ngữ trong Phật Giáo đề cập đến Ba Thân Phật, đó là: “Pháp Thân, Báo Thân và Hoá Thân”. Cả ba thân này nhằm ám chỉ cái gì? Nhân dịp này, người viết mời quý bạn đọc cùng người viết thử tìm hiểu về đặc điểm của Ba Thân này như thế nào? Trước hết chúng ta bàn về Pháp Thân.

            1. PHÁP THÂN: Là Phật vô sanh bất diệt, là thân tròn đầy dù đã nhập Niết Bàn rồi vẫn còn độ chúng sanh, trong kinh thường diễn tả Pháp Thân bao trùm khắp vũ trụ.

            Nói cách khác, trong tự tánh giác ngộ, Phật và chúng sanh không có gì khác nhau. Pháp Thân tức Phật Tánh lúc nào cũng hiện hữu nơi chúng ta, nó là tiềm năng giác ngộ, có khả năng kiến giải những điều mới lạ không qua sự học hỏi bình thường, nó hàm chứa vô lượng từ bi hỷ xả, tự nó có thừa năng lực chiếu sáng tràn đầy, soi rọi lối đi cho người giác ngộ trên con đường hoằng hoá cứu khổ chúng sanh.  

            Chúng ta những người phàm phu bị các ham muốn, khát ái, lo lắng, sợ hãi, buồn phiền che mờ, nói theo thuật ngữ nhà thiền là chúng ta bị “mây che mờ” nên “ánh sáng mặt trời” chưa thể lộ diện. “Mây mờ” đây chính là sự Vô Minh, là một khoen xích trong 12 khoen xích nhân duyên của con người do lậu hoặc, tập khí, kiết sử, tuỳ miên làm ô nhiễm Tâm, nên không nhận biết được Phật Tánh ấy. Phật Tánh có thể dụ như là “ánh sáng mặt trời” vậy!

            Muốn nhận ra Pháp Thân hay Phật Tánh, chúng ta cần dụng công tu tập. Trước cần hiểu rõ giáo lý, chọn pháp môn thích hợp rồi “hạ thủ công phu” một cách miên mật để tiến tới mục tiêu giác ngộ giải thoát.

            Thiền Tánh Không là Trung Tâm dạy Thiền Định do Thầy Thiền Chủ Thích Thông Triệt trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn hơn 20 năm nay. Thiền sinh mới bước vào cửa Thiền sẽ được giới thiệu đường lối và chủ trương của dòng Thiền này. Thầy Thiền Chủ lần lượt trang bị cho thiền sinh bốn kiến thức. Đó là Kiến thức về Phật học, Kiến thức về Thiền học, Kiến thức về Khoa học và Kiến thức về cách thực hành thiền.

            Thiền Tánh Không dạy thiền Phật Giáo, nghĩa là thiền theo Đức Phật Thích Ca nên phần giáo lý sẽ theo sát với “Tiến Trình Tu Chứng Và Thành Đạo của Đức Phật”. Sẽ tuần tự nghiên cứu về bốn tầng Thiền mà Đức Phật đã kinh qua, để sau cùng chứng được quả Anuttara-Sammà-Sambodhi tức Chánh Đẳng Chánh Giác, trở thành một vị Phật lịch sử được nhắc nhở và có nhiều tín đồ từ hơn 2,600 năm qua trên thế gian này.

            Thiền học thì theo bốn phương tiện mà Đức Phật đã để lại như: Quán, Chỉ, Định, Huệ. Thiền Tánh Không cũng mượn Khoa học não bộ để dẫn chứng và giải thích những lời Phật dạy trong kinh. Thí dụ như giải thích trạng thái hỷ lạc của Đức Phật khi vào định sâu là do đâu, hay trạng thái khinh an, khoẻ mạnh, nhớ dai là do chất sinh hoá học nào trong não bộ tiết ra. Kiến thức về não bộ rất cần thiết cho người thực hành thiền vì nó giúp cho người thực hành thiền tự kiểm soát xem mình tu tập đúng hay sai để sớm điều chỉnh mà không sợ “tẩu hoả nhập ma”.

            Quan trọng hơn hết là kỹ thuật thực hành thiền, bắt đầu từ các chiêu thức dễ thực hành như: nghe tiếng chuông, thư giản lưỡi, nhìn xa, nhìn gần, nhìn trống rỗng, nhìn ánh sáng nắng, nhìn bóng đen, thiền hành … giúp tâm dừng niệm, dần dần đến các kỹ thuật sâu sắc như không định danh đối tượng hay pháp Như Thật… giúp thiền sinh kinh nghiệm được định,  rồi tiến lên bước cao hơn thực hành qua các chủ đề siêu vượt như Không hoặc Chân Như…

            Chân Như định là định bất động (ngôn hành, ý hành, thân hành không động) còn gọi là Kim Cang hay Kim Cương định, là loại định cao nhất trong Phật giáo. Thầy Thiền Chủ giảng dạy về Chân Như định, bằng cách hướng dẫn thiền sinh thực hành từng giai đoạn qua pháp Thở và đặc biệt là pháp Không Nói. Điều chánh yếu là phải giữ Chánh Niệm, nghĩa là giữ niệm Biết Không Lời trong tất cả mọi suy nghĩ hành động ngay cả trong lúc đi đứng nằm ngồi.

            Có ba mức độ tu tập về Nhận Biết để đạt được kinh nghiệm Chân Như định, đó là:

            – Thứ nhất: Tiến trình Biết của Trí Năng Tỉnh Ngộ, dùng đơn niệm Biết Có Lời, thuộc tiền trán của Thuỳ trán để tác động vào các Tánh.

            – Thứ hai: Tiến trình Biết của Tâm Bậc Thánh là cái Biết của Tánh Giác (Tánh Nghe, Tánh Thấy, Tánh Xúc Chạm), đó là Tự Nhận Biết Không Lời  thuộc vùng tam giác của 3 thuỳ: Thuỳ Chẩm, Thuỳ Đỉnh và Thuỳ Thái Dương.

            – Thứ ba: Tiến trình Biết của Tâm Tathà hay Tâm Phật: Là Tự Nhận Thức Biết Không Lời  là đặc tính của Precuneus thuộc vùng vỏ não ở Thuỳ Đỉnh.

            Khi an trú trong Tánh Nhận Thức Biết Không Lời tức là an trú trong Tâm Tathà còn gọi là Phật Tánh hay là Pháp Thân.

            2. BÁO THÂN: Là vị Phật Lịch Sử, là Đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Là hình tướng tốt đẹp, trang nghiêm của người đã đạt quả vị Chánh Giác và được mọi người tôn xưng là Phật. Đức Phật đi đến đâu, toả ra từ trường từ bi trí tuệ đến đó, khiến cho người nhìn thấy không ai bảo ai, tự phát tâm kính mến lễ lạy.    

            Báo Thân ấy cũng hiển lộ nơi mỗi chúng sanh mà chúng ta có thể nhận ra, khi thân tâm họ tràn đầy niềm an lạc, hạnh phúc, là kết quả của sự thực hành tu tập lâu dài. Pháp Thân càng chiếu sáng thì Báo Thân càng tốt đẹp. Như vậy Báo Thân đặt trên nền tảng của Pháp Thân, mà Pháp Thân thì đặt trên nền tảng của sự tu tập.

            Giải thích theo Khoa học não bộ, thì não bộ của con người từ xưa đã có quán tính hay nói thầm trong não, tức là trong bộ não của con người luôn khởi niệm, hết niệm vui rồi tới niệm buồn, hết niệm lo âu rồi đến niệm sợ hãi, hết càm ràm chuyện này, thì tiếp theo càm ràm chuyện khác.

            Niệm buồn phiền, sân hận, lo âu nhiều ngày tác động vào Giao cảm thần kinh tiết ra những chất sinh hoá học, nếu nhiều quá, sẽ có hại cho cơ thể như Norepinephrine, Epinephrine, Glocagon, Cortisal v.v… khiến cho thân người dễ mắc đủ thứ bệnh như loét bao tử, áp huyết cao, tiểu đường, đứng tim, đột quỵ v.v…, về tâm thì đau buồn, chán nản, trầm cảm, mất một phần ký ức, hoặc có thể đưa đến căn bệnh gần như bất trị là Alzheimer mất hoàn toàn trí nhớ không biết mình cũng như người thân của mình là ai… Nếu không sớm chữa trị thì xúc cảm và trầm cảm được kết nối thành bệnh ung thư.

            Người vướng mắc, bệnh hoạn như thế đương nhiên thần sắc xám xịt xấu xí, tinh thần dao động, phiền muộn, khổ đau. Tự bản thân mình không được sống trong vui vẻ thoải mái, thì đối với những người xung quanh mình cũng không mấy hài hoà thân thiện, khiến cho họ e ngại không thích đến gần mình.

            Bây giờ hành giả tu thiền là người tự huấn luyện tế bào não có quán tính mới yên lặng.  Khi toàn bộ tế bào não yên lặng thì lúc đó Chân Tâm xuất hiện, hành giả tu tập để được an trú trong Tánh Giác, tín hiệu yên lặng tác động vào các Tánh rồi chuyền xuống cơ chế Dưới Đồi, tại nơi đây tín hiệu lập tức tác động vào Đối Giao Cảm Thần Kinh và một dọc các tuyến nội tiết khác, tiết ra những chất sinh hoá học có lợi cho cơ thể như: Acetylcholine, Dopamine, Serotonin, Melatonin, Endorphine, Insuline v.v.. những chất này có công năng giúp cho thân thể khinh an, nhanh nhẹn, khoẻ mạnh, phục hồi ký ức, vui vẻ, phấn chấn, tránh bệnh trầm cảm, ngừa được nhiều chứng bệnh tâm thể khác. Khi cơ thể khoẻ mạnh, da dẻ hồng hào, tinh thần sảng khoái, đi đứng khoan thai nhẹ nhàng thì hành giả này cũng có thể xem như được Báo Thân tốt nhờ tu tập. Nhưng ở đây hành giả chỉ mới được kết quả Báo Thân của bậc Thánh thôi.

            Hành giả tu thiền phải biết khi tới giai đoạn này, chỉ là mới tới bờ rào hay lằn ranh thôi, hành giả cần tiến lên cao hơn nữa, để vượt qua khỏi bờ rào hay lằn ranh này, đó là tiến tới an trú trong Tánh Nhận Thức Biết Không Lời tức là an trú trong Phật Tánh thì Pháp Thân mới sáng chói, và Báo Thân mới trang nghiêm rực rỡ.

            3. HOÁ THÂN: Là Phật huyền thoại, cũng gọi là ỨNG THÂN hay ỨNG HOÁ THÂN là thân của các vị Bồ Tát thị hiện thế gian để cứu giúp kẻ khổ đau, cùng hướng dẫn chúng sanh trên con đường sống đạo đức hay xa hơn là tu Tâm dưỡng Tánh, hầu đạt được an vui và hạnh phúc. Thí dụ Đức Bồ Tát Quan Thế Âm ứng hiện 32 hình tướng, tuỳ nơi tuỳ chốn mà hoá thân sống gần gũi hay hoà mình với chúng sanh để độ họ.   

            Hoá Thân cũng hiển hiện nơi chúng sanh có tâm tu hành đã an trú được trong Tánh Nhận Thức Biết, vị đó tự dưng có lòng từ bi giúp đỡ cho những người xung quanh trong khả năng của họ. Những vị ấy bề ngoài cũng chỉ là con người bình thường có khi còn nghèo khó hơn những người khác, nhưng tấm lòng của họ rộng lượng bao dung, sẵn sàng chia sẻ buồn vui, giúp đỡ người khác vượt qua những khó khăn trong cuộc đời. Hoá Thân hay Ứng Thân nhờ vào sự tu tập mà có. Nếu định lực mạnh thì Pháp Thân vững chắc, Báo Thân tốt đẹp và Ứng Thân cũng tương ưng với Pháp Thân và Báo Thân mà hành đạo giúp đời.

            Nhìn chung, chúng ta thấy Ba Thân Phật này luôn luôn liên hệ và tác động lẫn nhau, tác động nhưng không ngăn ngại cản trở lẫn nhau. Phật Tánh có sáng chói thì Báo Thân mới sáng chói và nhờ ảnh hưởng năng lực của Phật Tánh khiến cho Ứng Hoá Thân có đầy đủ năng lượng để đi vào đời ban vui cứu khổ chúng sanh, bằng cách mang pháp Phật ra giáo hoá hướng dẫn giúp họ được tỉnh ngộ tu tập để tự cứu lấy mình thoát ra khỏi mọi trầm luân khổ ải của cuộc đời.    

            Tóm lại, chúng sanh vì mê nên không biết được Phật Tánh nơi chính mình, vì thế cả cuộc đời họ, tuy có lúc cũng vui vẻ hạnh phúc nhưng cái vui vẻ hạnh phúc đó chỉ là tạm bợ, giả dối, trong kinh gọi là Huyễn, cho nên đa phần là họ phải chịu trầm luân trong đau khổ nhiều hơn.

            Còn Đức Phật với trí tuệ siêu vượt, Ngài đã thấy rõ tất cả các hiện tượng thế gian bao gồm vật chất và tâm lý đều nương tựa vào nhau mà có, mà hiện hữu. Trong pháp Lý Duyên Khởi, Phật dạy:  

                                                “Cái này có cái kia có.

                                                Cái này sanh cái kia sanh.

                                                Cái này không cái kia không.

                                                Cái này diệt cái kia diệt”.

            Hiện tượng thế gian sở dĩ hiện hữu là do duyên khởi, tức do nhiều điều kiện hợp lại mà thành, cho nên mới nói “cái này có cái kia có”, hay “cái này diệt cái kia diệt”, cũng trong ý nghĩa này Đức Phật nhận ra đặc tính của hiện tượng thế gian là Vô Thường, Khổ, Vô Ngã, Không, vì nó không thực chất tính, cho nên nó tự xung đột, thay đổi từng sát na, biến dịch từ hình thể này sang hình thể khác chứ không trường tồn vĩnh cửu, con người cũng vậy! Đây là chân lý khách quan hiện hữu trước cả khi Đức Phật ra đời, nghĩa là từ vô thỉ vô chung nó đã như thế. Về sau, khi Đức Phật chứng ngộ Lý Duyên Khởi Pháp Duyên Sinh về vũ trụ và nhân sinh, Ngài nhận ra điều này chứ không phải tự Ngài sáng tác ra chân lý trên!

            Là thiền sinh, có nghĩa là chúng ta đã tỉnh ngộ, biết phân biệt thế nào là hạnh phúc giả tạo, thế nào là hạnh phúc chân thật, cho nên chúng ta mới chọn con đường của Đức Phật mà đi. Nếu chúng ta tinh tấn thực hành theo đường lối của Đức Phật, kết quả sẽ giúp chúng ta kinh nghiệm được niềm an vui kỳ diệu. Niềm an vui chân thật, trong sáng, tinh sạch đó vốn rộng lớn bao la, và mãi mãi có mặt trong Tâm chúng ta, trong kinh gọi đó là bốn đặc tính của Niết Bàn gọi là Chân Thường, Chân Ngã, Chân Lạc và Chân Tịnh, mà khi quay về với trạng thái này thì chúng ta hoàn toàn an trú trong sự định tĩnh, tịch diệt của trạng thái Hữu Dư Y Niết Bàn, bất sinh bất diệt của mỗi người, ai cũng có!

            Đầu Xuân Bính Thân năm nay hay nói khác hơn là mỗi độ Xuân về Tết đến, bình thường mọi người hay đến chùa để cầu phước, cầu lộc, mong được nhiều may mắn cho mình, cho con cháu, cho gia đình mình trong năm mới. Nhưng với người Phật tử hiểu đạo, tức hiểu lời dạy của Đức Phật, thì ngược lại họ luôn bày tỏ lòng mong ước tu hành tinh tấn, và hướng về sự giải thoát an vui, hơn là cầu mong được đầy đủ vật chất, tiền tài, danh vọng… là những thứ huyễn hoặc, có đó rồi mất đó. Đến khi thân hoại mạng chung, vô thường ụp đến, phải bỏ thân xác này để ra đi về một nơi nào đó trong sáu cõi luân hồi, thì dù thiết tha mong muốn, mình cũng không thể nào mang theo được. Có chăng là những lậu hoặc nghiệp chướng, hay là kết quả của sự tu tập đạt được Tâm sáng suốt, làm Nhân Chứng trước giờ từ giã cõi đời ra đi một mình mà thôi!

            Phật Giáo chú trọng đến việc tu Tâm, nghĩa là trong sạch hoá nội tâm bằng cách buông xả tất cả các vọng niệm là những ý tuởng phân biệt, so sánh, hiềm khích, nhị nguyên thuộc về Tâm Phàm Phu.

            Khi Tâm buông xả tất cả những tạp niệm gây ra phiền não, thì tự nó sẽ trở nên trong sạch, chiếu sáng rỗng lặng. Đó là Tánh tự nhiên chân thật của con người chúng ta, cái “bản lai diện mục” là mặt mũi từ xưa nay của chúng ta, tự nó hiển lộ, tự nó toả sáng. Lúc đó Tâm chúng ta đi vào cõi bình an rộng lớn. Chúng ta như được uống những ngụm nước cam lồ mát rượi và ngọt lịm của dòng suối hạnh phúc uyên nguyên từ trong chính mình. Đó là chúng ta đang an trú trong trạng thái yên lặng sâu thẳm tịch diệt tự nhiên của nó, mà thuật ngữ nhà Phật gọi là Tâm Tathà hay Tâm Như hay Phật Tánh vậy!

            Khi Tâm đã an bình như thế, thì chúng ta tức khắc hiểu được Thực Tại tối hậu là Chân Như một cách trực tiếp như thế nào, khi chúng ta gạt bỏ tất cả những quy ước tục đế bằng các lời nói hay chữ viết, bỏ hết những phẩm chất, thuộc tính của vạn vật, mà người thế gian tự đặt ra để thông tin liên lạc với nhau trong đời sống hằng ngày, rồi lặn ngụp trong đó tạo thành vô số mạng lưới khái niệm trong Tâm, là nguyên nhân đưa đến ô nhiễm Tâm khiến ta đau khổ.

            Nói khác đi, khi buông xả tất cả các ý tưởng phân biệt, mâu thuẫn, tranh giành, thì Tâm ta đi vào chốn yên lặng sâu thẳm tự nhiên của nó. Từ chốn yên lặng sâu thẳm tự nhiên ấy, qua phản xạ thụ động kích thích tiềm năng giác ngộ, mà trí huệ tâm linh bừng sáng, mà lòng từ bi tự nở hoa vô lượng, đưa ta vào thế giới ban sơ, không sinh không diệt, là thế giới của tình yêu thương bao la không phân biệt Năng Sở. Đó là ta đã thể nhập Vô Ngã, thể nhập Chân Như. Ta và Người, hay Ta và Cảnh chỉ là một, thuật ngữ nhà Phật gọi là Nhất Như. Đó chính là Tâm Chân Thật, Tâm Như Vậy…  là Tâm Phật, là Tâm Giải Thoát, là Pháp Thân bao trùm khắp nơi khắp chốn.

            Với cái Tâm đó, cái Tâm mà Đức Phật gọi là “Cái Vô Sinh”,“Vô Ngã”, các nhà Phật Giáo Phát Triển về sau gọi là “Tự Ngã Thanh Tịnh Tuyết Đối”, đó chính thật là Tâm Hạnh Phúc bất diệt. Chúng ta an trú trong cảnh giới Tâm đó, chính là chúng ta đang an trú trong mùa Xuân bất sanh bất diệt, mùa Xuân của hạnh phúc, mùa Xuân của tứ vô lượng tâm: Từ Bi Hỷ Xả… mà chúng ta vẫn thường hay chúc tụng nhau mỗi độ Xuân về Tết đến.  

            Người viết tạm thời ngưng bài tìm hiểu ý nghĩa Ba Thân Phật” nơi đây. Đương nhiên là bài viết còn rất nhiều thiếu sót, ngưỡng mong chư tôn thiền đức có dịp lướt mắt qua bài này hỷ xả cho, hoặc giảng dạy thêm để người viết có cơ hội mở mang tâm thức về Phật học thì thật là biết ơn vô cùng. Hiện tại người viết chỉ mong chia sẻ chút ít kiến thức nông cạn của kẻ sơ cơ làm món quà đầu năm gửi đến quý độc giả thuận duyên. Trước khi chấm dứt bài viết này, người viết kính chúc chư Tôn Đức pháp thể khinh an, tuệ đăng thường chiếu, kính chúc quý độc giả một năm mới an vui hạnh phúc trong tinh thần tu tập của người con Phật.

            Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

            THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

            (An Cư Kiết Đông tại Tổ Đình Tánh Không Perris, CA)

Tưởng Niệm và Tri Ân Thầy

Thích Nữ Hằng Như

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật;

Hôm nay là ngày 26 tháng 12 năm 2022, nhằm ngày mồng 04 tháng Chạp năm Nhâm Dần, tại Thiền viện Chân Như Navasota, Hội Thiền Tánh Không Houston Texas có duyên lành được tiếp đón Ni Sư Triệt Như quang lâm từ Tổ Đình Tánh Không California về đây chủ trì Lễ Tưởng Niệm Ân Sư, cố Hòa Thượng thượng Thông hạ Triệt

Hai năm vừa qua bệnh dịch Covid hoành hành, việc đi lại bị giới hạn. Tuy nhiên,  dù hoàn cảnh như thế nào đi nữa, nhưng đến những ngày cuối năm lạnh giá, Ni chúng và thiền sinh Tánh Không cư ngụ tại thành phố Houston đều rủ nhau về Thiền viện Chân Như làm Lễ Tưởng Niệm Thầy. Năm nay cũng thế!

          Kính bạch Ni Sư, thưa quý Ni đoàn và các thiền sinh hiện diện; Thưa chư vị, trong buổi Lễ Tưởng Niệm vị Thầy khả kính, chúng tôi muốn nhắc lại một vài điểm trọng yếu, như là một hình thức cùng nhau ôn lại một đoạn đường tu tập, cũng như ngộ đạo, và truyền đạo của Thầy mình.

Cố Hòa Thượng Thích Thông Triệt thế danh là Lê Kế Tông. Thầy xuất gia năm 1974 với Đại Lão Hòa Thượng Thích Thanh Từ.  Xuất gia chưa tròn một năm, vào tháng 7 năm 1975 Thầy được mời đi “nhập thất bất đắc ”. Trong thời gian nhập thất,  6 năm đầu, Thầy tu tập thiền nhưng không đạt được Định.

Một ngày nọ trong trạng thái buồn bực chán nãn, Thầy cầm cây bút bi viết lên tờ giấy “không thiền, không quán, không chỉ, không định, không trụ, không nhiếp, không … không…. không”. Đến chữ “không” cuối cùng, Thầy thuận tay gạch mạnh một đường dưới chữ “không”. Ngay khi cánh tay vừa vút mạnh lên khỏi đầu, Thầy đưa mắt lặng nhìn cánh tay của mình, rồi bất thình lình Thầy nhận ra cách giải chủ đề mà Thầy đã bế tắc trong nhiều năm qua. Đó là “không nói thầm trong não thì có định”. Thầy vui mừng, quỳ xuống đất hướng về miền Nam lạy tạ Sư Ông (Thanh Từ) 4 lạy. Nhờ có Sư ông mà Thầy thể nhập được cái “trống rỗng”. Lúc đó Thầy cao hứng lập bài kệ:

“Ta đã hết rồi chuyện thế gian

Tâm ta thanh thản như mây ngàn

Đâu còn chi nữa mà đem nói

Ý bặt, lời không, óc rỗng rang”

Đó là lần ngộ đạo đầu tiên vào lúc 4 giờ sáng mùng 04 Tết năm 1981. Thầy ghi lại sự kiện này trong tập sách trình Pháp dâng lên Sư Ông. Thầy nói ngộ đạo chỉ là bước khởi đầu, còn cuộc hành trình tiếp theo để chứng đạo mới thật là nhiêu khê!

Để đạt được định. Thầy lấy câu kệ “Ý bặt, lời không, óc rỗng rang” để làm phương thức tu tập. Bước đầu tiên Thầy “dùng lời tắt lời” (tức dùng tầm tắt tứ). Thầy xử dụng hai từ “KHÔNG NÓI” để công phu. Một thời gian sau, Thầy tiến lên một bước nữa là “dùng Ý tắt tầm”, rồi “tắt luôn Ý và Tưởng”.

Lần lượt tu tập như vậy, đến tháng 3 năm 1986, Thầy mới thật sự đạt được trạng thái “Ý bặt, lời không, óc rổng rang” mà Thầy đã cao hứng nói kệ vào tháng 2 năm 1981.

Lúc đó Thầy gọi pháp thành công này là “Tắt lời đồng bộ”. Bây giờ là pháp “KHÔNG NÓI TOÀN BỘ” nghĩa là người tu tập đạt được trạng thái  “DEFAULT MODE NETWORK”, toàn bộ 17 tỷ tế bào trong não yên lặng.

Tháng 2/1989 Thầy được trả tự do sau 14 năm nhập thất bất đắc dĩ. Ba năm sau đó, vào tháng 2/1992 với sự giúp đỡ của Sư Ông, Thầy sang định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO. Ban đầu ở thành phố Seattle, Washington State.  

Năm 1993 Thầy dọn về tiểu bang Oregon. Đầu năm 1995 Thầy bắt đầu mở khóa Thiền Căn Bản đầu tiên tại tiểu bang Oregon.

Năm 1998 Thầy dọn về thành phố Westminter, Nam California; tiếp tục mở các khóa dạy Thiền. Đến năm 2000 Thầy dọn về thành phố Perri, Nam California, chính thức dựng bảng hiệu ‘Thiền Viện Tánh Không” tại nơi đây.

Từ năm 1995 đến năm 2015 Thầy đã lần lượt chứng minh và thành lập 15 đạo tràng Thiền Tánh Không ở nhiều nơi tại Hoa Kỳ và ngoại quốc như Califorina, Texas, Canada, Pháp quốc, Đức quốc, Thụy sĩ, Úc Châu.

Kể từ năm 2016,  sức khỏe Thầy không tốt, Ni Sư Triệt Như đã tiếp tục thay Thầy đi hoằng pháp và thành lập thêm một số đạo tràng mới ở Washington DC, Úc Châu, Canada, Việt Nam. Đặc biệt năm nay Ni Sư thành lập thêm một đạo tràng ở Việt Nam nâng cao tổng số là 20 đạo tràng Tánh Không.  

Tưởng niệm về Thầy Thiền Chủ mà không đề cập đến việc “chụp hình não bộ” của Thầy là một thiếu sót lớn. Đệ tử theo Thầy lâu năm, ai cũng biết Thầy tham gia chụp hình não bộ từ năm 2007, 2008, 2009, 2010 và 2014 do Tiến sĩ  Giáo Sư Michael Erb (Phân Khoa Thần Kinh bức xạ học) và  Tiến sĩ Giáo Sư Ranganatha Sitaram (Tâm lý y học) thuộc Viện Đại học Tuebingen đảm trách.

Sau 5 năm dài thử nghiệm, Thầy đã chứng minh được vùng nhận thức biết và vùng xúc chạm đều nằm sau bán cầu não trái đúng như Thầy đã dạy các thiền sinh từ lâu! Thứ hai là chứng minh được khi vào định, các vùng tiền trán và 2 vùng ngôn ngữ Broca và Wernicke đều yên lặng. Thứ ba là chứng minh sự tác động dây chuyền giữa vùng nhận thức với hệ thống viền não bên trong não giữa. Thứ tư là chứng minh được khi vào định, sóng não ở dạng delta, nhịp tim đập chậm, nhịp thở rất chậm, đôi lúc vào trạng thái tịnh tức…

Những vị nào chưa thấy kết quả và hình chụp não bộ của Thầy, có thể xem những hình chụp của Thầy được trưng bày dọc bên hông chánh điện. Được biết hai ông Dr. Michael Erb và Dr. Ranganatha Sitaram đã đại diện Đại học Tubingen tham dự Đại Hội các khoa học gia thế giới về não bộ (OHBM) được tổ chức ở Barcelona, Spain từ ngày 6 đến 11 tháng 6 năm 2010. Hai vị Tiến sĩ này đã trình bày và triển lãm kết quả về việc tìm hiểu não bộ của Thầy và thiền sinh Tánh Không qua các kỹ thuật thực hành thiền.

 Những lần chụp hình não bộ của Thầy bằng máy f-MRI và điện não đồ EEG-256 channels, tuy kết quả khả quan, nhưng cũng khiến cho một phần não bộ của Thầy bị tổn thương, ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe của Thầy. Nhưng Thầy không lấy đó làm hối tiếc mà quyết hy sinh bản thân để làm sáng tỏ Thiền Phật Giáo là một môn khoa học tâm linh. Và Thầy đã mang Khoa Học Não Bộ vào chương trình giáo hóa giúp cho thiền sinh biết khi nào thiền sai và khi nào thiền đúng để kịp thời điều chỉnh. Nhờ vậy mà thiền sinh không còn lo sợ vu vơ sẽ phát điên hay tẩu hỏa nhập ma khi học thiền!  

Hôm nay tưởng niệm ngày Thầy rời xa chúng con tròn ba năm. Chúng con chí tâm thành đảnh lễ Thầy. Lời tri ân xin được thay thế bằng sự cố gắng tu tập, nguyện sống sao cho xứng đáng là đệ tử của Thầy.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(Thiền Viện Chân Như 26/12/2022)

Kết Bạn Theo Lời Phật Dạy

Thích Nữ Hằng Như

I. DẪN NHẬP

            Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ. Xa hơn nữa là tình yêu đôi lứa đó là thứ tình cột chặt hai tâm hồn, hai trái tim nam nữ xa lạ lại với nhau. Và còn một thứ tình cảm rất bình dị và cao quý, đó là tình bạn. Bạn bè cũng giống như người yêu, phải có duyên mình mới gặp và gắn kết với người đó, nhưng tình bạn khác với tình yêu. Tình yêu thông thường chỉ có giữa hai người nam và nữ. Còn tình bạn thì khác. Bình thường một người có thể làm bạn với nhiều người. Tình yêu có thể thay đổi nhưng tình bạn tri kỷ thì ở lại với mình cho đến hết cuộc đời!

Người ta nói cuộc đời có bao nhiêu mối quan hệ thì có bấy nhiêu bạn bè. Thực sự không phải người nào mình gặp gỡ hằng ngày hoặc cùng tham gia chung các cuộc vui, nói với nhau những lời tốt đẹp, hay tặng quà qua lại trong những dịp lễ lạc, là “người bạn chí cốt ” của đời mình. Đây có thể chỉ là một dạng bạn xã giao bắt buộc phải có trong quan hệ làm ăn mà thôi, bởi vì sau những cuộc giao dịch qua lại đó, hễ được việc thì còn tiến tới, nếu không vừa ý thì đường ai nấy đi. Sống ở đời, không ai là không có bạn. Nếu không khéo, mình kết thân với những người bạn xấu, bạn ác thì cuộc đời của mình ngày càng đi vào ngỏ hẹp. Về vấn đề này, đức Phật cũng có những lời khuyên dạy cho đệ tử xuất gia và tại gia của Ngài.

II. KẾT BẠN THEO LỜI PHẬT DẠY

Trong Tăng Chi Bộ Kinh, tiểu đoạn “Bạn Hữu”, đức Phật dạy các Tỳ Kheo nếu cần một người bạn, thì nên thân cận với những ai hội tụ bảy phẩm chất: “Cho những gì khó cho, làm những gì khó làm, nhẫn những gì khó nhẫn, nói lên những bí mật của mình, che giấu những bí mật của người, không từ bỏ khi gặp bất hạnh, không khinh rẽ khi tài sản khánh tận”. Bài kinh được diễn đạt theo văn vần như sau:

Bạn cho điều khó cho

Làm những điều khó làm

Kham nhẫn những lời nói

Thật khó lòng kham nhẫn

Nói lên bí mật mình

Che giấu bí mật người

Bất hạnh không từ bỏ

Khánh tận, không chê khinh

Tìm được người như vậy

Với ai cần bạn hữu

Hãy gần bạn như vậy!”  (hết trích)

Hoặc khi gặp một loại người thứ hai, có bảy phẩm chất như: “khả ái khả ý; tôn trọng; đáng được bắt chước; là nhà thuyết giả; kham nhẫn lời nói; nói lời sâu kín; không có hối thúc những điều không hợp lý”. Đức Phật dạy: “Khi gặp Tỳ-kheo nào thành tựu bảy pháp vừa nêu trên thì cần phải thân cận, cần phải giao thiệp, cần phải hầu hạ, dầu có bị xua đuổi.” Bài kinh được viết theo văn vần như sau:

                      “Khả ái và đáng kính

                        Đáng bắt chước, thuyết giả

                        Kham nhẫn các lời nói

                        Nói những lời thâm sâu

                        Không hối thúc ép buộc

                        Những điều không hợp lý

                        Ai có những pháp này

                        Ở đời, người như vậy

                        Người ấy là bạn hữu

                        Với ai cần bạn hữu

                        Người mong muốn lợi ích

                        Với lòng từ ai mẫn

                        Dẫu có bị đuổi xua

                        Hãy thân cận bạn ấy” (hết trích)

Kinh Pháp Cú, đức Phật dặn dò Trưởng lão Xa Nặc qua bài kệ số 78 như sau:

                        “Chớ thân với bạn ác

                        Chớ thân kẻ tiểu nhân

                        Hãy thân người bạn lành

                        Hãy thân bậc thượng nhân.” (hết trích)

Như vậy, đối với các đệ tử xuất gia, đức Phật có lời khuyên trên con đường tu tập hướng đến giải thoát giác ngộ, mình cần gần gũi với các bạn lành, các vị thượng nhân, chân nhân … là những vị có phẩm chất cao đẹp sẵn sàng giúp đỡ dìu dắt mình. Kết bạn với họ, hầu hạ họ, không phải dựa dẫm vào họ để hưởng danh thơm tiếng tốt, mà là để bản thân mình học hỏi từ sự tích cực nơi họ, học tính tốt nơi họ, bởi vì “gần mực thì đen gần đèn thì sáng”. Nhờ học hỏi tu tập theo họ, mà từ một người phàm phu thô tháo, sẽ dần trở thành một bậc thánh nhân cao thượng.

Về phía cư sĩ tại gia, trong kinh Hiền Nhân, đức Phật cũng dạy chúng ta bốn kiểu kết bạn: Đó là Kết bạn như hoa, kết bạn như cân, kết bạn như núi, kết bạn như đất.  

1) Sao gọi là kết bạn như hoa: Nói về loại bạn này đức Phật dạy rằng: “Khi bông hoa còn tươi tốt thì giắt lên đầu nâng niu yêu quý, còn khô héo rồi thì vứt bỏ đi. Kết bạn cũng thế: hễ thấy giàu sang thì xu phụ theo, thấy nghèo nàn lại bỏ làm lơ”. Đức Phật minh họa đây là loại người khi đến làm bạn với chúng ta chỉ nhằm lợi dụng. Khi chúng ta làm ăn thành công, tiền bạc rủng rỉnh tạm gọi là giàu sang, thì họ bám lấy cầu thân, nhờ vả… Ông bà xưa thường nói đây là hạng người “thấy sang bắt quàng làm họ”. Nhưng khi chúng ta sa cơ, lỡ vận thì họ vội vàng tránh xa bỏ mặt. Họ “xài” chúng ta như “xài” đóa hoa. Khi hoa còn tươi tốt thì nâng niu thích thú cài lên tóc, khi hoa héo khô thì quăng liệng không đoái hoài.  Loại tình bạn kiểu lợi dụng vật chất này không thể bền lâu. Chúng ta không nên gần gũi để không bị lợi dụng.

2) Sao gọi là kết bạn như cân:Khi để vật nặng thì đầu gục xuống, vật nhẹ thì đầu vổng lên, có qua có lại thì cung kính nhau, không qua lại thì khi dễ nhau”. Đây là kiểu tình bạn đặt nặng vấn đề trọng lượng đong đo cân đếm về tiền nong, lợi nhuận,  theo kiểu “có qua có lại mới toại lòng nhau” hoặc “nhả con tép thu lại con tôm”.  Loại bạn này hôm nay tặng mình một, ngày mai mình tặng lại hai thì còn tình bạn, bằng không thì người đó xem thường mình. Đây cũng là loại người đặt tình bạn lên bàn cân, mình có tiền, có quyền, thì họ cúi đầu (gục đầu) trọng vọng. Nếu chẳng may mình gặp nạn thất thế thì họ sẽ ngoảnh mặt về hướng khác, coi mình không ra gì. Và dĩ nhiên họ sẽ tìm cách tránh né rời xa mình, nếu chẳng may gặp mình ở đâu đó nơi công cộng.

3) Sao gọi là kết bạn như núi:Hòn núi vàng loài chim thú tụ về, lông cánh được chói màu vàng rực, kết bạn cũng thế, khi sang thì sang với nhau, khi vui thì đồng vui”. Kết bạn như núi là kiểu tình bạn san sẻ, bồi đắp, bổ sung cho nhau. Khi giàu sang thì giúp đỡ bạn nghèo túng. Khi nghèo túng thì cùng bạn vượt qua mọi khó khăn, giống như minh họa của đức Phật về sự quan hệ giữa núi và chim muông cầm thú. Các loài động vật tụ về núi vì nơi đây có nhiều thức ăn. Núi nhờ muôn loài động vật tụ về mà trở nên phong phú đầy sức sống.  Tình bạn này không phân biệt sang hèn, thành bại, đẹp xấu, họ giúp đỡ lẫn nhau để cùng vươn lên. Cả hai bên xem nhau như là bạn tốt, kết thành tri kỷ.

4) Sao gọi là kết bạn như đất:Tất cả mọi vật đều nương dựa đất mà sinh, làm bạn như đất để nuôi dưỡng để ủng hộ, ân hậu không bạc…”. Nói tới đất, người ta nghĩ tới sự nhẫn nhịn, chịu đựng, chấp nhận, sẵn sàng đón nhận tất cả mọi thứ dù sạch hay dơ. Nhìn chung đất là cái nền của sự sống, là nơi vạn vật dựa vào để sinh sống và phát triển. Tình bạn như đất là thứ tình bạn thiêng liêng, cùng nương tựa, nhường nhịn, chấp nhận xấu tốt của nhau, khuyên lơn, xách tấn, an ủi, chia xẻ vui buồn… để cùng tiến bộ trong cuộc sống. Đây là một trong những yếu tố tạo nên tinh thần tùy hỷ trong đạo Phật. Là thứ tình bạn mà mọi người nên mở lòng đón nhận, bởi những người bạn thuộc dạng đất này, khi mình thành công thì bạn vui mừng không ghen tỵ. Khi mình sa sút, bạn cũng không bỏ bê xem thường, mà sẵn sàng ở bên cạnh  chia xẻ, giúp đỡ mình vượt qua cơn bỉ cực.

III. LỜI KẾT

Ngoài việc chăm sóc đời sống của các đệ tử xuất gia cần có những thiện tri thức làm gương trên bước đường tu tập hướng về tâm linh, đức Phật cũng không quên chúng ta là những cư sĩ còn sống ngoài đời. Những người như chúng ta rất cần có bạn để học hỏi và chia sẻ niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống. 

Qua bốn kiểu kết bạn trên đây, đức Phật giúp chúng ta nhận thức rõ lối ứng xử của từng loại bạn. Đức Phật không phân biệt giàu sang hay nghèo khổ, đẹp người hay xấu người, mà chỉ để ý đến tính cách tốt, xấu, tích cực, hay tiêu cực của từng loại bạn sẽ ảnh hưởng đến cuộc đời của chúng ta mà thôi!

Hai loại tình bạn như hoa, tình bạn như cân, là hai loại người “thấy giàu hay nịnh, thấy nghèo hay khinh”, chúng ta thường thấy xuất hiện trong đời sống chúng ta nhiều lần. Nếu gặp phải, xem như đó là bài học kinh nghiệm cho mình. Người ta đối xử tệ bạc với mình như vậy, là đệ tử của đức Phật, mình không oán hận hay trách móc làm gì cho mệt, nhưng nên từ từ tránh xa họ ra!

May mắn gặp tình bạn dạng như núi, như đất, thì thật quý hóa. Hai loại tình bạn này giúp cho chúng ta tiến bộ trên đường đời cũng như trên con đường tu học. Tuy nhiên, muốn giữ tình bạn tri kỷ này được dài lâu, thì bản thân chúng ta cũng phải tu sữa trau dồi phẩm hạnh để trở thành một người có nhân cách, xứng đáng là bạn tốt của nhau. Đương nhiên sống ở đời không ai là không lầm lỗi. Chúng ta phải học hạnh nhẫn nhịn và tha thứ của đất về những lỗi lẫm nho nhỏ của nhau thì tình bạn mới được bền lâu./.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(Thiền thất CHÂN TÂM, November 16-2022)

Thánh Ni Khema, đệ nhất trí tuệ trong hàng Ni giới

Thích Nữ Hằng Như

I. DẪN NHẬP

Kể từ khi thành đạo cho đến lúc đức Phật nhập Niết-Bàn.  Trong thời gian 45 năm hoằng pháp, xung quanh Ngài tỏa sáng hào quang thành tựu của nhiều đệ tử cả nam lẫn nữ, cả người xuất gia lẫn tại gia. Đặc biệt, về phía Tăng đoàn, có 10 vị được kinh điển nhắc nhở đến rất nhiều, được xưng tán là “Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật”. Dưới sự giáo giới của đức Phật, mười vị Đại đệ tử đó tinh tấn tu tập và nêu cao đạo hạnh cùng sở trường ưu tú nhất, được xem là 10 tấm gương sáng trong Tăng đoàn. Vị nào cũng tràn đầy năng lượng, đã đắc quả A-la-hán khi còn tại thế. Đó là: 1) Tôn giả Xá-Lợi-Phất (Sariputta): Trí tuệ đệ nhất.  2) Tôn giả Mục-Kiền-Liên (Moggallana): Thần thông đệ nhất. 3) Tôn giả Ma-Ha-Ca-Diếp (Mahakassapa): Đầu đà đệ nhất. 4) Tôn giả A-Nâu-Đà-La (Anurauddha): Thiên nhãn đệ nhất. 5) Tôn giả Tu-Bồ-Đề (Subhuti): Giải Không đệ nhất. 6) Tôn giả Phú-Lâu-Na (Punna): Thuyết pháp đệ nhất. 7) Tôn giả Ca-Chiên-Diên (Katyayana-Kaccayana/Kaccana): Hùng biện đệ nhất. 8) Tôn giả Ưu-Bà-Ly (Upali): Trì giới đệ nhất. 9) Tôn giả Anan (Ananda): Đa văn đệ nhất. 10) Tôn giả La-Hầu-La (Rahula): Mật hạnh đệ nhất.

Bên hàng Ni chúng cũng có các nữ tôn giả xuất sắc được đức Phật ấn chứng khen ngợi như: Tỳ-khưu-ni Ma-Ha-Ba-Xà-Ba-Đề (Mahã Pãjãpati Gotamĩ) người Trung Hoa dịch là Đại-Ái-Đạo, là Di mẫu Kiều-Đàm-Di của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta. Bà là vị Ni trưởng thánh hạnh đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, được đức Phật tuyên dương là vị Tỳ-khưu-ni có kinh nghiệm bậc nhất trong việc lãnh đạo Ni chúng. Nữ tôn giả Khema là vị thánh ni có Đại Trí tuệ tối thắng bậc nhất. Thánh ni Uppalavanna (Liên Hoa Sắc) tối thắng về  thần thông. Thánh ni Patacara là vị nổi tiếng Trì luật tối thắng. Thánh ni Sakula được xem là vị có thiên nhãn tối thắng nhất trong hàng Ni chúng v.v… và v.v…

Trong chương trình học của Thiền Tánh Không, qua chủ đề “Tiến trình tu chứng và thành đạo của Đức Phật Thích Ca”, chúng ta đã quen thuộc với hai danh xưng Kiều Đàm Di là di mẫu của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta và Da-Du-Đà-La là hôn thê của Ngài. Có dịp chúng ta sẽ tìm đọc về cuộc đời tu tập của hai vị thánh ni này. Hôm nay chúng ta cùng nhau lật lại trang cổ sử tìm hiểu về cuộc đời vô cùng thú vị và xuất chúng của vị Tỳ-khưu-ni lỗi lạc, vang danh bậc nhất về Đại Trí Tuệ trong Ni giới. Đó là nữ tôn giả Khema. Đặc biệt là Khema đã chứng quả Thánh cao thượng, chỉ sau một thời pháp của đức Phật, ngay khi bà còn là một hoàng phi cao sang quyền quý, chưa hề xuất gia, chưa hề quy y Tam Bảo, chưa phải là đệ tử của đức Phật Gotama.

                                   II. KHEMA, BÀ QUÝ PHI XINH ĐẸP CỦA HOÀNG ĐẾ BIMBISARA

 Từ  Khema mang ý nghĩa là “an lạc”, là “điểm tỉnh”. Tỳ-khưu-ni Khema xuất thân từ gia đình hoàng tộc ở vương quốc Ma-Kiệt-Đà. Cô có nhan sắc vô cùng diễm lệ, là quý phi được hoàng đế Bimbisara (Tần-Bà-Sa-La) sủng ái nhất. Bà quý phi này rất say mê sắc đẹp của bản thân. Bà luôn tự hào và hãnh diện về nhan sắc của mình.

Đức vua Bimbisara là một vị vua rất kính ngưỡng Tam Bảo, vua và chánh cung hoàng hậu Videhi đều là đệ tử thuần thành của đức Phật. Cả hai đã đạt quả vị Nhập Lưu, nên hiểu rõ về lý Nghiệp-Quả, nhận thức rằng tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, vô ngã. Tuy yêu nhan sắc chim sa cá lặn của quý phi, nhưng sau khi học và hiểu giáo pháp, đức vua có nhận định rằng sắc đẹp mỹ miều của quý phi hiện tại trông giống như đóa hoa xinh đẹp đang tỏa hương thơm ngào ngạt quyến rủ ong bướm, nhưng theo thời gian đóa hoa sẽ tàn, nhụy hoa sẽ rửa. Sắc đẹp đó, sao bằng vẻ đẹp của tâm hồn! Khi tâm người có tu tập thấm nhuần hương vị chánh pháp, thì hương vị đó còn mãi và ngày một thăng hoa khởi sắc từ đời này sang đời khác. Đức vua muốn thức tỉnh cơn mê của quý phi, không muốn để nàng chìm đắm vào nhan sắc giả tạm của mình mãi như thế! Nhiều lần đức vua cố gắng tạo duyên cho quý phi Khema đến đảnh lễ đức Phật. Nhưng tất cả những cố gắng của đức vua đều bị bà quý phi yêu dấu này từ chối thẳng thừng. Nàng vẫn cương quyết cho rằng trên đời này không có gì quý bằng nhan sắc của chính nàng. Trả lời đức vua, bà nủng nịu nói rằng:

– Tâu đại vương, thần thiếp đồng ý và tin lời đại vương nói! Rằng là đức Thế Tôn ấy có 32 quý tướng, 80 vẻ đẹp. Rằng là Ngài ấy toàn hảo về mọi đức hạnh, quyền năng và trí tuệ. Thế gian xưng tán Ngài ấy là Thầy của chư thiên và loài người, thần thiếp cũng không hồ nghi! Nhưng thực tâm mà nói, thần thiếp không muốn gặp Ngài  ấy!

Gặn hỏi còn lý do nào khác mà nàng nhứt định không chịu đến đảnh lễ đức Phật, thì bà trả lời:   

– Tâu đại vương,  thần thiếp còn nghe nói rằng đức Thế Tôn ấy thường có lời khiếm nhã coi thường nữ giới, đôi khi mỉa mai, chê cười sắc đẹp của phụ nữ. Nghe nói nhiều lần Ngài ấy giảng cho đệ tử: đẹp gì, quý gì, mỹ miều gì… cái túi da chứa đựng những thứ bất tịnh bên trong, mà suốt ngày lo xông hương, ướp phấn. Hiện tại thần thiếp rất hạnh phúc với nhan sắc trời ban và được đại vương hết mực yêu thương. Thần thiếp không mong muốn điều gì khác. Nếu còn yêu thần thiếp thì cầu xin đại vương đừng ép thần thiếp đến đó được không?

Nghe bà quý phi xinh đẹp nói như vậy, đức vua biết được điểm yếu của ái phi mình rồi! Cái gì đối nghịch với nhan sắc của bà là không được! Bà không đến viếng thăm đức Thế Tôn là tránh không muốn nghe những lời bình phẩm về nhan sắc của bà trước mặt nhiều người, rồi sau đó lại nghe lời rao giảng hãy buông bỏ đam mê ngũ dục, hãy sống đời thiểu dục thanh cao. Những điều này ngược với sự mong muốn của bà, bởi hiện tại bà đang hưởng một cuộc sống mỹ mãn, đang ngồi trên ngôi vị cao sang, sở hữu một nhan sắc tuyệt trần, được hoàng đế sủng ái, và đang là một ngôi sao sáng chói trước những đôi mắt thèm thuồng của thế nhân!

Bấy giờ đức vua không hối thúc hoàng  phi nữa, mà triệu tập quân sư hiến kế. Quân sư đề nghị triều đình tổ chức các cuộc tuyển lựa sáng tác những bài thơ, bản nhạc… nhằm ca ngợi khu vườn thượng uyển Veluvana do đức vua cúng dường lên đức Phật và giáo hội. Nơi đó có hương thất, có giảng đường, có nhiều loại trúc trồng trong khu vườn nên đức Thế Tôn đặt tên là Trúc Lâm, là chỗ trú ngụ của đức Phật và Tăng đoàn. Thế là có nhiều sáng tác ca ngợi Trúc Lâm  đại tịnh xá là một nơi khả ái, khả hỷ, khả lạc, là một khung cảnh nên thơ hữu tình vô cùng xinh đẹp. Bất cứ ai bước vào khu đất thánh đó, chắc chắn tâm hồn người ấy sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát,  mát mẻ, dễ chịu… Tiếp theo là những bài hát vẻ vời, ca ngợi tôn vinh cảnh trí Trúc Lâm không thua kém gì vườn Hỷ Lâm (Nadavana) là thắng cảnh đệ nhất trên khung trời Đao Lợi, là nơi mà Đế Thích Thiên Chủ rất yêu thích, thường hay cùng các thiên nữ đến đó du ngoạn. Những mô tả quá sức tưởng tượng này, ngày một nhiều, và được mọi người truyền tụng ca vang, khiến hoàng phi Khema nổi tính hiếu kỳ, nhưng cũng chưa muốn đến viếng thăm Trúc Lâm đại tịnh xá.

                                                               III. QUÝ PHI KHEMA ĐẮC QUẢ THÁNH

Dù quý phi Khema không muốn, nhưng một ngày nọ hoàng đế Bimbisara ra lệnh các hoàng phi phải tháp tùng cùng Ngài và hoàng hậu Videhi đến tịnh xá Trúc Lâm viếng thăm đức Thế Tôn. Đến tịnh xá Trúc Lâm, quả như lời ca tụng, nơi đây là một khung cảnh xanh tươi, trong lành, mát mẻ. Cả không gian, đâu đâu cũng yên lặng, êm ả, thanh bình. Một niềm vui nhẹ nhàng lan tỏa trong tâm hồn quý phi Khema.

Đức vua Bimbisara cùng đoàn tùy tùng tiến vào giảng đường đảnh lễ đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đang trầm tĩnh tọa thiền trên bục đá.  Nơi Ngài toát ra vẻ vừa uy nghi, vừa an nhiên thoát tục. Vua Bimbisara cùng hoàng hậu và các hoàng phi tiến đến cung kính đảnh lễ Người. Nhà vua thăm hỏi Thế Tôn, bày tỏ niềm mong nhớ Thế Tôn khi Người vắng mặt suốt ba tháng qua, và thỉnh đức Thế Tôn thuyết pháp.

Trong lúc Thế Tôn đang giảng cho đại chúng. Ngài đọc được tâm ý của quý phi Khema và biết đã đến lúc có thể chuyển hóa tâm tư của vị quý phi này. Ngài bèn dùng thần thông tạo ra hình ảnh một cô thiên nữ đẹp tuyệt trần đứng hầu quạt cạnh Ngài. Nhìn thấy cô thiên nữ, Khema sững sờ kinh ngạc vì không ngờ bên cạnh đức Thế Tôn lại có một giai nhân tuyệt sắc như thế! Trước giờ, bà nghĩ chỉ một mình bà là người xinh đẹp nhất, đẹp hơn cả chánh cung hoàng hậu. Nhưng hôm nay, sánh với nhan sắc của nàng thiên nữ, thì nét đẹp của bà chỉ ngang với ánh sáng lập lòe của những con đom đóm trong đêm. Còn nàng thiên nữ kia thì rạng rỡ như trăng rằm trùm khắp. Khema thầm nhủ: “Từ trước đến nay, ta chưa hề thấy một mỹ nhân nào tuyệt sắc như vậy, so với nàng ta thật xấu xí !”.

Hoàng phi Khema quay sang nói với tỳ nữ bên cạnh: Em trông người con gái đứng bên cạnh Thế Tôn kìa! Ôi chao, cô ấy từ đâu đến, mà đẹp tuyệt trần đến vậy?

Người nữ tỳ trả lời trong sự ngạc nhiên : “Dạ thưa hoàng phi, con chỉ thấy có một mình đức Thế Tôn mà thôi ạ!”

Hoàng phi ngỡ ngàng khi nghe tỳ nữ nói thế!  Bà dán chặt ánh mắt của mình vào cô gái và tự hỏi:  “Cô ấy thật là đẹp, đẹp tựa như một thiên thần, vậy mà không có ai nhìn thấy nàng sao? Thế Tôn bảo thân thể này là đáng chán mà lại có một tuyệt sắc giai nhân đứng bên cạnh Người. Xem ra Người không hề khinh thường sắc đẹp như lời thiên hạ đồn đãi”.  Bản tánh kiêu ngạo của bà hoàng phi, bị vẻ đẹp thần thánh của thiên nữ lung lay, và dường như bà có vẻ tự hạ mình chịu thua!

Hoàng phi Khema chăm chú theo dõi không rời từng cử chỉ nhẹ nhàng phe phẩy quạt của thiên nữ.  Đôi má hồng mịn, cặp mắt long lanh, mái tóc óng ánh bồng bềnh, đôi môi mộng ngọt chúm chím nửa như mỉm cười lộ hàm răng trắng đều như ngọc, nửa như lại mím môi nủng nịu, trông thật đáng yêu làm sao? Thời gian vừa đủ cho bà hoàng phi mê mệt với nét đẹp thanh tân của tiên nữ, đức Thế Tôn tiếp tục biến hóa hình ảnh mỹ nhân này, từ một thiếu nữ thanh xuân, dần dần thành thiếu phụ trung niên, rồi thành một bà lão già nua lưng còng, má hóp, môi thâm. Đôi mắt long lanh trong sáng ban nãy giờ trông tối tăm mờ đục.  Hàm răng trắng đều như hạt bắp giờ rụng hết chỉ còn lại một hai chiếc nhọn quắc và vàng quánh chỉa ra ngoài, nước miếng, nước dải, rỉ hai bên mép trông thật gớm ghiếc. Làn da trắng nõn nà ban nảy giờ nhăn nheo xám xịt. Mái tóc đen óng ả giờ chỉ lưa thưa vài chùm tóc bạc còn dính lại trên da đầu nhăn nhíu. Cuối cùng thân hình còm cõi, yếu ớt, xấu xí đó gập ngã xuống mặt đất lăn lộn đau đớn, rồi chết dưới chân đức Thế Tôn. Chưa hết, xác chết mau chóng trương xình, thối rửa, tan rả chỉ còn bộ xương khô. Rồi bộ xương ấy cũng tan thành tro bụi, bay mất trong hư vô.

Mục kích cảnh này, Khema sợ hãi, kinh hoàng, toàn thân bủn rủn. Bà thầm nghĩ: “ Ôi, một hình hài trẻ trung đẹp đẽ trước mặt ta, chỉ trong phút chốc lại tàn hoại, biến mất nhanh chóng như thế sao? Thân xác của ta rồi cũng không thoát khỏi cảnh này, ôi ghê rợn quá!”

Đức Phật thấy bà hoàng Khema  đã nhận ra bài học vô thường, Ngài  hướng về bà cất lời trầm ấm nhưng đầy xác quyết: “Này Khema, thân này là giả tạm, vô thường không thể tránh khỏi sinh, lão, bệnh, tử. Thân này là bất tịnh, chỉ là cái túi da mỹ miều, chứa đựng bên trong những thứ hôi thối, dơ bẩn. Chỉ những kẻ si mê mới đắm say thân xác ấy”.

Ngay phút giây ấy, gương mặt hoàng phi chợt sáng hẵn ra, bầu trời chân lý bỗng hé mở huy hoàng trong tâm trí bà. Bằng niềm tôn kính Tam Bảo tột cùng, bà chấp tay quỳ xuống đảnh lễ và thổn thức thưa với đức Thế Tôn:

-Bạch Thế Tôn, con đã thấy pháp, con đã ngộ pháp. Phàm tất cả những gì có sinh thì phải có diệt.

 Biết rằng hoàng phi đã chứng quả Dự Lưu. Thế Tôn dịu dàng nói tiếp: “Này Khema, người đắm say ái dục. Giống như ruồi sa lưới nhện. Chịu đau khổ ràng buộc. Rồi cuối cùng cũng tiêu tan. Chỉ có bậc trí tuệ tột cùng đã đoạn trừ ái dục, mới có thể giải thoát viên mãn, đạt đến hạnh phúc tối thượng”.

Thế Tôn vừa dứt lời, toàn thân hoàng phi rung lên, phát ra ánh sáng kỳ diệu. Ngay khi ấy hoàng phi Khema chứng ngộ thánh quả A-la-hán.

Đức vua Bimbisara, các vị hoàng phi, tỳ nữ, cận vệ, cư sĩ và ngay cả  hàng Tăng chúng chứng kiến cảnh này vô cùng kinh ngạc không tin vào sự kiện xảy ra trước mắt mình là sự thật.

Bấy giờ đức Thế Tôn lên tiếng xác chứng:

– Này vua Bimbisara, Khema đã giải thoát, chỉ có thể sống đời xuất gia, hoặc nhập Niết-bàn, chứ không thể sống đời thế tục thêm nữa!

Nghe đức Thế Tôn tuyên bố như thế,  vua Bimbisara vô cùng sửng sốt, ông vội quỳ xuống cầu xin trong niềm xúc động:

– Kính xin Thế Tôn hãy khoan để hoàng phi nhập Niết-bàn! Xin hãy để hoàng phi được xuất gia trong Ni đoàn của Người ạ!

Đại chúng bắt đầu xôn xao, thắc mắc, không hiểu vì sao hoàng phi chưa tu hành ngày nào, chỉ gượng ép đi cùng nhà vua đến nghe Pháp mà chứng được quả vị giải thoát tột cùng như thế!

                  IV.  CÂU CHUYỆN TIỀN THÂN CỦA HOÀNG PHI KHEMA

Không phải hoàng phi Khema chứng quả A-la-hán dễ dàng do bởi bà được may mắn gặp đức Phật Gotama như đại chúng nghĩ, mà do bà có căn duyên với Phật Pháp trong nhiều kiếp quá khứ. Kiếp nào bà cũng tu tập hành trì bố thí, tinh cần thiền định, thiền tuệ, giữ gìn giới đức và đã được đức Phật Padumuttara ấn chứng sẽ có ngày bà thành tựu viên mãn trở thành vị Tỳ-khưu-ni đại trí tuệ. Nay đủ duyên lành đức Phật Gotama đã dùng thần thông vén màn tử sinh, cho bà thấy sự vô thường của một kiếp người, và đã rót vào tâm bà bài pháp khai ngộ tâm trí. Khema vốn có căn tu sâu dày từ thời cổ Phật Padumuttara cho đến kiếp vừa qua. Vì thế, bà mới thành tựu được đại nguyện chỉ trong chớp mắt ở đời hiện tại này!

Câu chuyện về các kiếp quá khứ của hoàng phi Khema được kể lại trong  Kinh Bổn Sanh, truyện Tiền Thân Đức Phật (các bài số 354, 397, 501, 502, 534 v.v…)

 Chuyện kể rằng: Cách đây 100 ngàn kiếp, từ thời cổ Phật Padumattara, Khema sinh ra là một nô tỳ cho một gia chủ trong thành phố Hamsavati. Đời sống của cô rất nghèo nàn và cơ cực, nhưng dung nhan cô vô cùng diễm lệ, nhất là mái tóc dài thả xuống tận gót chân. Một hôm cô gặp được trưởng lảo Sujatà vốn là đại đệ tử của đức Phật Padumuttara (Thắng Liên Hoa) đang thong dong trì bình khất thực. Cô phát lòng tịnh tín, nhưng không có tiền, chỉ có vài xu lẻ, đủ để mua một chiếc bánh ngọt, cô thành kính đảnh lễ đặt bát cúng dường.  Thấy cô có tấm lòng tịnh tín nên trưởng lão Sujatà gợi ý:

– Bánh thí tuy nhỏ nhoi, nhưng tâm cô tịnh tín và vô cùng thành kính thật đáng quý. Cô có ước nguyện gì không?

– Thân phận con thấp hèn, nào dám ước nguyện gì, chỉ mong ở một kiếp nào đó trong tương lai, có cơ duyên được sống đời xuất gia, nhẹ nhàng thanh thoát như tôn giả vậy!

Trưởng lão Sujatà khích lệ:

– Cơ duyên tốt đẹp sẽ tới và cô sẽ được toại nguyện!

Được sự khích lệ động viên như thế, nên khi nào có dịp, cô lại hoan hỷ đặt bát cúng dường, dù ít ỏi nhưng không bao giờ mệt mỏi. Trong một buổi lễ cúng dường lên đức Phật và chư Tăng, có sự tham gia của vua chúa, quan lại, thương gia, triệu phú. Người ta đua nhau chuẩn bị thực phẩm, thuốc men, tứ sự nhiều vô số kể!

Thấy vậy, cô rất tủi thân, bởi bản thân không có gì quý giá dâng lên đức Thế Tôn và chư Tăng trong dịp này. Chợt nhớ đến mái tóc hiếm có của mình. Cô bèn tìm đến cửa hàng trang điểm bán mái tóc, được một số tiền nhỏ nhoi. Cô nhanh chóng sắm lễ phẩm để chung hội thí cúng dường với mọi người… Bằng thiên nhãn, tha tâm thông, đức Phật Padumuttara thấu rõ tấm lòng của cô, nên hôm ấy, đức Ngài đã không dừng lại ở chỗ phú quý sang trọng của vua chúa, quan đại thần, hay của các triệu phú, thương gia, mà ôm bình bát tiến thẳng tới mâm vật thực nghèo nàn của cô gái. Ngài cho trải tấm tăng-già-lê xuống mặt đất, rồi nhẹ nhàng thanh tịnh ngồi xuống độ thực ngay tại chỗ. Cô gái quỳ xuống chấp tay hầu một bên, trên mặt tràn đầy nước mắt cảm động. Đức Phật hỏi cô có ước nguyện gì? Cô trình ước nguyện của mình lên đức Phật là sau này được trở thành một Tỳ-khưu-ni có sở đắc về trí tuệ.  Đức Phật Padumuttara đã thọ ký cho bà được như nguyện!

 Sau kiếp sống ấy, do nhờ tâm tịnh tín và phước báu thù thắng, cô gái tái sanh luân chuyển trong các cõi trời và người, luôn được làm hoàng hậu, vương phi của các vị vua trời và các đức Chuyển luân thánh vương, sống một đời hạnh phúc.

Tương truyền rằng trong thời đức Phật Vippassi cách đây 91 đại kiếp, Khema từng là một Giáo thọ Tỳ-khưu-ni xuất chúng. Và trong thời kỳ giáo pháp của ba vị Phật trước đức Phật Gotama là đức Phật Kakusandha, Konagamaba và Kassapa (Ca-Diếp),  Khema là một nữ cư sĩ sanh trong gia đình cự phú đã phát tâm cúng dường xây cất nhiều Tu viện cho Tăng già.

Trong bất cứ thời nào, có sự hiện diện của một vị Phật, mặc cho chúng sanh u mê bám vào đời sống thế tục trôi lăn trong vòng luân hồi sáu cõi, thì Khema luôn luôn tìm cách tiếp cận với cội nguồn trí tuệ bằng cách nỗ lực tô bồi đức hạnh, làm lành tránh dữ, thanh lọc tâm ý. Đặc biệt dưới thời đức Phật Kassapa, bà tên là Samani, là trưởng công chúa, con đức vua Kiki nước Kasi, kinh thành Baranasi đã khẩn khoản xin xuất gia nhưng phụ hoàng và mẫu hậu không đồng ý. Tuy nhiên do căn duyên tu nhiều đời, trưởng công chúa và các công chúa em thường hay đi nghe pháp, sống rất có giới hạnh và bố thí cúng dường không mệt mỏi.

Còn trong những chu kỳ không có chư Phật, Khema tái sanh cùng thời với các vị Phật Độc Giác hoặc ở các vùng lân cận với Bồ tát là tiền thân của đức Phật Gotama. Kinh Bổn Sanh, Tiền Thân Đức Phật truyện số 354 có ghi một kiếp Khema là vợ của đức Bồ-tát, được Ngài khuyến khích mọi người trong gia đình nếu muốn sống hòa thuận an vui thì nên: “Tùy thứ mình có hãy năng bố thí, hành trì bố tác, giữ giới trong sạch, quán tưởng sự chết, suy niệm sinh diệt. Vì trong hoàn cảnh chúng sanh như ta, sống là bất định chết là nhứt định. Mọi pháp hữu vi đều phải hoại diệt, Hãy nên tinh cần tỉnh giác ngày đêm”. Và Khema đã nghe lời phu quân sống như vậy!

Tóm lại, do căn duyên tu tập chín muồi nhiều kiếp quá khứ như vậy, cho nên kiếp này khi gặp đức Thế Tôn lần đầu tiên tại tịnh xá Trúc Lâm,  chỉ trong chớp mắt sau khi được đức Phật khai ngộ qua hình ảnh vô thường vô ngã của một con người với nhan sắc thiên kiều bá mộng phút chốc tan hoại biến mất vào hư vô, đã giúp Khema chứng ngộ được sự thực tuyệt đối, chứng đắc thánh quả A-la-hán cao thượng.

Sau đó, hoàng phi Khema được nữ tôn giả Da-Du-Đà-La làm lễ xuất gia.  Ngày Khema phủi đi mái tóc dài thướt tha và thay bộ y phục lộng lẫy quý phái, cởi bỏ vòng vàng trang sức, để khoác lên mình tấm y hoại sắc giản dị, chính thức gia nhập Ni đoàn, là ngày tôn giả Khema bắt đầu một cuộc đời mới vô cùng thiêng liêng, với vô số hạnh nguyện của bậc A-la-hán vĩ đại.

                                V. “TRONG CÁC VỊ NỮ ĐỆ TỬ CỦA NHƯ LAI,

                      CÓ ĐẠI TRÍ TUỆ TỐI THẮNG LÀ TỲ-KHƯU-NI KHEMA”

Những vị A-la-hán là những vị đã đạt trí tuệ giải thoát tột cùng phủ trùm pháp giới. Mỗi vị có công hạnh, sở trường tối thắng và hành đạo theo cách riêng của mình. Tôn giả Khema được mệnh danh là đệ nhứt trí tuệ bởi Ngài có khả năng thấu hiểu mọi điều trong ba cõi. Nhờ thâm nhập giáo pháp vi diệu của đức Như Lai và nhờ có tha tâm thông thấu hiểu tâm trạng căn cơ của người đối diện, nên những lời  giảng dạy của Người đã giúp cho chúng sanh tin hiểu và chấp nhận được những điều sâu xa vi tế trong giáo pháp. Những hình ảnh ẩn dụ được Ngài khéo xử dụng để diễn tả những điều trừu tượng khó hiểu. Nhờ vậy mà có nhiều chúng sanh cảm phục, hoan hỷ tuân hành theo chánh pháp. Đức Thế Tôn đã khen ngợi rằng: “Trong các vị nữ đệ tử của Như Lai, có Đại trí tuệ tối thắng là Tỳ-khưu-ni Khema.”

Một cuộc pháp đàm được kể lại trong Tương Ưng Bộ Kinh bài số 44 giữa vua Pasenadi (Ba-Tư-Nặc) và Khema đã chứng minh trí tuệ tối thắng của tôn giả Khema như sau:

                 Vào một ngày nọ, vua nước Kosala là hoàng đế Pasenadi trên đường du hành, nghỉ lại một đêm ở vùng quê Toranavatthu. Nhân dịp này đức vua sai người hầu đi tìm một vị đạo sĩ trí tuệ hay một vị Bà-la-môn trong vùng để Ngài hỏi Pháp. Người hầu tuân lệnh, đi tìm khắp Toranavatthu, không thấy có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào cả. Người ấy trở về tâu lên vua:

– Tâu đại vương, tại vùng này không có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào để Đại vương có thể yết kiến. Nhưng được biết có vị Tỳ-khưu-ni, đệ tử của đức Thế Tôn đang cư trú trong vùng. Đó là nữ tôn giả Khema nổi tiếng là người có trí tuệ quảng bác về pháp học, pháp hành thâm sâu, và là một luận giả tài ba. Đại vương có thể yết kiến vị ấy!

Đức vua đến gặp, sau khi đảnh lễ Tỳ-khưu-ni Khema, Ngài đưa ra 4 câu hỏi về trạng thái sau khi tịch diệt của đức Như Lai. Cuộc đàm đạo diễn ra như sau:

– Thưa Nữ tôn giả, Như Lai có tồn tại sau khi chết không?

– Tâu Đại vương, Thế Tôn không trả lời: “Như Lai có tồn tại sau khi chết”.

– Vậy thưa Nữ tôn giả, Như Lai không tồn tại sau khi chết?

– Tâu Đại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: “Như Lai không tồn tại sau khi chết”.

– Thưa Nữ tôn giả, Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?

– Tâu Đại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: “Như Lai có tồn tại hay không tồn tại sau khi chết”.

– Vậy thì thưa Nữ tôn giả, Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?

– Tâu Đại vương, điều ấy cũng vậy, Thế Tôn không trả lời: “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”

Tôn giả Khema từ tốn đáp lời ngắn gọn như thế, bởi Ngài hiểu đức Thế Tôn cũng không muốn chúng sanh lẩn quẩn trong những câu hỏi huyền hoặc. Vì tranh luận những câu hỏi giống như vậy, chỉ làm hao tổn thân tâm, gây phiền não mê muội, đồng thời cũng chẳng có lợi ích gì cho việc tu hành chấm dứt luân hồi khổ đau. Thế nhưng nhà vua vẫn tiếp tục nêu thắc mắc:

– Thưa Nữ tôn giả, do nhân duyên gì mà Thế Tôn không trả lời bốn thắc mắc trên?

Tôn giả Khema nhìn nhà vua lòng đầy thương cảm, nếu vua cứ dính mắc với những câu hỏi ấy, muốn tìm đến tận nguồn tận gốc, thì sẽ rơi vào cố chấp, tà kiến. Trong khi đó hành trình tu tập đi đến giải thoát giác ngộ, thì phải tự tu, tự chứng. Như một người uống nước, nóng lạnh, chỉ người đó biết, dùng lời giải thích người khác không hiểu. Với lòng bi mẫn, tôn giả mong muốn tháo gỡ những điều hỗn tạp ấy trong tâm nhà vua. Trước tiên Ngài hỏi vua Pasenadi:

– Đại vương nghĩ sao? Nếu có một nhà Toán học tài ba, hay nhà thống kê thiện xảo, người ấy có thể ước tính được cho vua có bao nhiêu hạt cát dưới đáy sông Hằng, và số lít nước trong lòng đại dương hay không?

– Vua trả lời: Điều này chắc chắn là không thể được, vì hạt cát sông Hằng nhiều vô số kể không thể đếm hay ước tính được, và đại dương thì bao la, sâu thẳm, làm sao dò đến tận đáy!

Bây giờ Nữ Tôn giả Khema mới trình bày rõ hơn:

– Cũng vậy, đức Thế Tôn là bậc toàn giác. Ngài cũng như đại dương bao la, sâu thẳm vô cùng tận. Ngài vượt ngoài mọi đo lường hữu hạn của thế gian. Nếu có ai muốn hiểu Thế Tôn qua sắc thân, cảm thọ, hành, thức, thì sớm muộn cũng đi vào bế tắc, bởi đức Thế Tôn đã đoạn tận rồi ngũ uẩn ấy , giống như cắt lìa gốc rễ của cây Sa-La, làm cho nó không thể sanh khởi trong tương lai được. Vì vậy không thể tìm thấy và cảm nhận bản thể của đức Thế Tôn nơi những thuộc tính danh sắc ấy! Nếu có ai nói rằng Thế Tôn “tồn tại” hay “không tồn tại”, hay “vừa tồn tại, vừa không tồn tại”, hoặc “không tồn tại hay không không tồn tại” sau khi nhập Niết-bàn, đều không phải là tri kiến đúng đắn!

          Nhà vua hoan hỷ, tin thọ lời giải thích thâm sâu của Tỳ-khưu-ni Khema, Ngài đảnh lễ Tỳ-khưu-ni rồi ra về!

Một thời gian sau đó, vua Pasenadi có dịp đến đảnh lễ đức Thế Tôn, nhà vua cũng thỉnh cầu đức Thế Tôn trả lời bốn câu hỏi như thế. Thế Tôn đã trả lời với ngôn từ và ý nghĩa không khác gì với nữ đệ tử Khema. Điều này, khiến đại vương Pasenadi hết sức ngạc nhiên. Nhà vua liền kể lại cuộc đàm luận với tôn giả Khema cho đấng đại giác, và không hết lời tán thán bậc thánh ni có trí tuệ tối thắng trong giáo đoàn của đức Phật.

           VI. “TỲ-KHEO-NI KHEMA” ĐÁNH BẠI SỰ CÁM DỖ CỦA “MA VƯƠNG”

 Trong kinh có ghi lại ma vương thường hiện đến dụ dỗ phá rối các đệ tử của đức Phật. Thánh ni Khema cũng không thoát khỏi cảnh này! Trong Trưởng Lão Thi Kệ có đoạn ghi lại câu chuyện giữa ma vương và thánh nữ Khema. Đại ý là vào một buổi sáng đẹp trời có một chàng trai trẻ với dáng vẻ thanh tao, mặt mày sáng sủa, quần áo bảnh bao. Trên tay cầm một cây đàn, ngồi xuống ở gốc cây cách tôn giả không mấy xa. Mắt hắn ta lim dim, bàn tay lướt nhẹ trên dây đàn, dạo lên khúc nhạc gợi tình lả lơi. Dạo xong một dòng nhạc, hắn dừng lại và tiến tới gần tôn giả Khema, cất giọng quyến rủ: “Này hỡi nàng tu sĩ trẻ đẹp xinh tươi như đóa hoa mùa Xuân. Ta cũng tràn đầy nhựa sống thanh niên. Cớ gì chúng ta không cùng nhau rong chơi hưởng thụ khoái lạc. Hỡi giai nhân, hãy cùng ta chấp cánh phiêu bồng khắp nơi cho thỏa lòng mong ước”.

Với đạo nhãn thanh tịnh, Khema nhìn thấy rõ đó là một ma vương đội lớp người. Gương mặt hắn dử tợn và hung bạo, đôi mắt đỏ rực tràn đầy dục vọng. Tôn giả cất giọng trầm tĩnh trả lời: “Này ác ma, hãy dừng lại mọi sự mời gọi. Ta đã nhàm chán từ lâu thân thể mỏng manh, ô uế, chứa đầy bệnh tật. Tâm ta đã nhổ sạch cây ái dục. Ái dục như gươm giáo, bén nhọn, chặt vào tấm thân năm uẩn, làm đau đớn thân xác và tâm hồn. Cái ngươi gọi là khoái lạc, với ta chẳng gì vui thú. Hãy đi vào rừng núi mà tìm gặp các đạo sĩ thờ thần mặt trời, thần mặt trăng, thần lửa. Những người này nhầm tưởng và cố chấp cho rằng mình đã thanh tịnh, hiện ở trong quyền lực của nhà ngươi đấy! Còn ta, thì đừng hòng! Ta đã là đệ tử của đức Thế Tôn bậc Toàn Giác, Ngài là vị Thầy tôn quý nhất trong tam giới. Giáo pháp của Thế Tôn như ánh mặt trời phá tan màn đêm tăm tối của vô minh ngã chấp, dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi luân hồi khổ đau. Ta nay đã chấm dứt tất cả lậu hoặc, đã ở ngoài quyền lực của ngũ ma, trong đó có cả ngươi. Ác ma, hãy tan vào bóng tối đi!”

Ma vương biết rằng mình bị thất bại, hắn gầm lên giận dữ rồi biến mất. Cảnh vật nơi đây vẫn vắng lặng như không có gì xảy ra. Tôn giả Khema vẫn ngồi đó trong tư thế kiết già thanh thoát, bình an và tự tại.

                                          VII. BÀI HỌC TỪ THÁNH NI KHEMA

Để trở thành một vị thánh ni vĩ đại, bậc đệ nhất trí tuệ trong Ni đoàn của đức Thế Tôn, Tỳ-khưu-ni Khema đã trải qua hàng trăm ngàn kiếp tu tập hành trì theo giáo pháp của chư Phật. Chung quy là bố thí cúng dường, thiền định, thiền tuệ, thanh lọc thân tâm trong sạch. Nhiều đời Ngài được sanh ra cùng thời với chư Phật và thánh tăng, trực tiếp được các Ngài động viên khuyến khích tu hành. Những chu kỳ không gặp Phật thì lại gần gủi các vị Độc giác Phật hoặc Bồ tát là tiền thân của đức Phật Gotama. Đời nào kiếp nào Ngài cũng kiên trì quyết chí tu tập miên mật, tạo biết bao nhiêu công đức và phước đức. Cho tới thời đức Phật Gotama, đại duyên chín muồi Ngài đắc quả A-la-hán cao thượng và sau đó được đức Phật giao cho nhiệm vụ giáo huấn Ni đoàn. Tuy đã là một A-la-hán nhưng Ngài vẫn luôn công phu hành trì để phát huy trí huệ ngày một sâu sắc hơn. Từ trí tuệ của Ngài, những đạo lý thâm sâu đã được giảng giải chi tiết, tường tận, khiến cho mọi tà kiến mê lầm bị dập tắt. Ngài đã đưa vô số chúng sanh đến với chánh đạo, và để lại cho chúng sanh bài học cao quý về “sự vô thường của xác thân và sự nguy hiểm của ái dục”.

Là Phật tử chúng ta noi theo hạnh tu của Ngài. Đó là tin sâu vào Tam Bảo, nỗ lực trên hai phương diện pháp học và pháp hành. Ngoài ra trong cuộc sống hằng ngày chúng ta nên chuyên cần thực hiện các hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ. Chúng ta hiểu rằng vạn pháp là vô thường. Thân thể hiện tại khỏe mạnh, tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, chồng, vợ, con cái hôm nay là mình, là của mình, nhưng mai kia mình chết đi, tất cả sẽ không còn gì nữa! Như vị thiên nữ xinh đẹp kia chỉ trong thoáng chốc biến thành tro bụi biến mất trong hư vô. Đọc qua lịch sử của Tỳ-khưu-ni Khema, chúng ta biết rằng chết không phải là hết! Cho nên đời này may mắn gặp Phật pháp chúng ta nên sớm tỉnh thức chọn con đường sống trung đạo đúng đắn, không quá tham đắm vào thế gian hư ảo, sống tử tế đối với bản thân và những người xung quanh để không tạo ác nghiệp!

Trước khi khép trang sử lại, chúng con thành kính tri ân các bậc Thầy Tổ, các nhà nghiên cứu Phật sử, đã ghi chép lại những câu chuyện cổ xưa giá trị về cuộc đời của các bậc thánh tăng, thánh ni, để đời này, chúng con được noi gương tu học nơi các Ngài. Sau cùng và mãi mãi chúng con nguyện cầu tôn giả Khema gia hộ cho Phật tử chúng con: tâm Bồ đề kiên cố, chí tu học vững bền, có đủ sức mạnh chiến thắng những cám dỗ ái dục, giữ tròn giới hạnh, sống đời an vui trong chánh pháp nhiệm mầu của Như Lai. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật; Nam Mô Thánh Nữ Đệ Nhất Trí Tuệ, Ngài Khema.

                                                                                THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

                                                            (Thiền thất Chân Tâm, November 5/2022)

Bốn Hạng Người Hiện Hữu Có Mặt Ở Đời

Thích Nữ Hằng Như

I. DẪN NHẬP

Bài kinh  “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng. Bài pháp này đức Thế Tôn giảng dạy cho các vị Tỷ-kheo, khi Ngài đang trú tại làng Ghanda, nơi dân Vajji cư ngụ. Nội dung bài pháp ngắn này, đức Thế Tôn cho biết ở đời có bốn hạng người hiện hữu. Đó là hạng người đi thuận dòng, hạng người đi ngược dòng, hạng người tự đứng lại và hạng người khác là vị Bà-la-môn vượt qua bờ bên kia, đứng trên đất liền.

II. VÀO KINH

“ Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Vajji, tại làng Bhanda. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

“ Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, hiện hữu có mặt ở đời. Thế nào là bốn? Hạng người đi thuận dòng, hạng người đi nghịch dòng, hạng người tự đứng lại, vị Bà-la-môn đã vượt đến bờ bên kia, đứng trên đất liền.

 Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người đi thuận dòng?  Ở đây, này các Tỳ-kheo, có người thọ hưởng các dục và làm ác nghiệp. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người đi thuận dòng.

 Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người đi ngược dòng? Ở đây này các Tỷ-kheo, có hạng người không thọ hưởng các dục, không làm ác nghiệp, với khổ, với ưu, nước mắt đầy mặt, khóc than, sống phạm hạnh viên mãn thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người đi ngược dòng.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người tự đứng lại? Ở đây, này các Tỷ-kheo, do diệt tận năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không còn trở lại đời ấy nữa. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người tự đứng lại.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị Bà-la-môn đã vượt qua đến bờ bên kia, đứng trên đất liền? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người do hoại diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này các tỷ-kheo, đây gọi là Bà-la-môn, đã vượt qua đến bờ bên kia, đứng trên đất liền.

Bốn hạng người này, này các tỷ-kheo, hiện hữu có mặt ở đời” (hết trích)

III. TÌM HIỂU Ý KINH

Một người từ lúc sinh ra, lớn lên và chết đi. Khoảng thời gian này được xem như là một đời người. Mỗi người có một cuộc đời không ai giống ai. Người ta thường ví von cuộc đời như một dòng sông. Những người sống trong cuộc đời xem như là những chiếc thuyền qua lại trên dòng sông. Chiếc đi chiều này, chiếc ngược chiều kia. Dòng sông thì có đoạn ngắn, đoạn dài, đoạn trong sạch, đoạn đục dơ, đoạn phẳng lặng, đoạn xoáy tròn, đoạn bình yên, đoạn nguy hiểm. Người thuận theo dòng là người chấp nhận để thuyền trôi theo dòng sông không phản kháng.

Dòng đời không lúc nào dừng lại cũng như dòng sông nước chảy không bao giờ ngừng. Một người không tự chủ sẽ dễ dàng bị cuốn theo những thứ hào nhoáng ở đời như tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, của cải, danh vọng, quyền lực, sắc đẹp… Vì tham lam khát ái, muốn đạt được mục đích hưởng thụ các dục vọng hiện tại, người này sẽ không từ những thủ đoạn xấu xa tạo nghiệp ác.

Ai sống trên đời này, mà không trải qua những kinh nghiệm ham thích đó chứ? Một thứ kinh nghiệm ngọt ngào hạnh phúc chen lẫn nỗi sợ hãi mất mát bởi trong niềm vui luôn chứa sẵn nỗi buồn! Tuy biết thế, nhưng đa phần không mấy người chế ngự được các dục, họ không thể từ bỏ được ly tham, cứ tiếp tục gieo nhân tốt hoặc xấu. Làm sao cũng được, miễn đạt mục tiêu mong muốn của mình là tốt. Họ cứ tiếp tục thọ hưởng các dục vọng, và sống như thế cho đến hết cuộc đời. Rồi do nghiệp lực dẫn dắt người ấy tiếp tục lặn ngụp trong dòng sông sinh tử hết đời này sang đời khác. Đây là loại người mà đức Thế Tôn xếp vào hạng người đi thuận dòng.

Trên dòng sông đông đảo thuyền bè chen chúc qua lại với những tranh đua, giành giựt để lúc vui vẻ, hả hê, lúc buồn bực, đau khổ đó… cũng có những chiếc thuyền trí tuệ nhận ra đâu là bến đổ thực sự sẽ mang đến bình yên an lạc cho mình, nên mới quay thuyền ngược dòng. Những chiếc thuyền ngược dòng  ví như những người từ bỏ đời sống hưởng thụ các dục, họ tu tập an trú trong chánh niệm. Dù gặp phải nhiều khó khăn, đau khổ hay thiếu thốn, họ cũng không làm những việc xấu ác trái với lương tâm. Nghĩa là không có hành động gây phiền não cho người khác và cho ngay cả chính mình. Loại người này được đức Thế Tôn xếp vào hạng người đi ngược dòng.

             Có những chiếc thuyền chấp nhận nghịch lưu, mặc cho dòng sông đời lúc nào cũng bận rộn ngược xuôi, xuôi ngược. Thuyền vẫn âm thầm lầm lũi đạp sóng ngược dòng và đến một ngày thuyền dừng lại trên bến vắng yên lặng, vì đã vượt khỏi năm ngọn sóng lớn lúc nào cũng muốn nuốt lấy con thuyền nhỏ bé cô đơn.  Những chiếc thuyền vượt qua năm cơn sóng to gió lớn này, chính là những vị cư sĩ hay các vị Tỷ-kheo vượt qua mọi dính mắc, mọi dục vọng đưa đến kết quả đoạn diệt năm hạ phần Kiết sử theo lời Phật dạy, không còn cái nhìn sai lệch về thân tâm của mình nữa (Thân kiến), người đó thấy biết con người chỉ là sự kết hợp của ngũ uẩn nên nó vô thường, biến hoại từng giây từng phút. Không còn hoài nghi con đường đã chọn, bởi họ tin sâu vào Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng). Không bị những mê tín dị đoan ngoại đạo cuốn hút (Giới cấm thủ), diệt tận tham lam và sân hận. Những người này khi thân hoại mạng chung sẽ hóa thân về cảnh giới thanh tịnh, tiếp tục con đường tu tập và nhập Niết-bàn ở đó, không trở lại cuộc đời này nữa. Đây là những vị đã chứng quả vị Bất Lai (không trở lại). Loại người này, đức Thế Tôn xếp là hạng người tự đứng lại.

Vượt qua những chiếc thuyền đứng lại, có những chiếc thuyền kiên nhẫn tiếp tục lướt trên những đợt sóng khát ái, dục vọng, tiến thẳng tới bờ, đậu yên lành trên mảnh đất bình yên giải thoát. Rồi vì lòng từ bi giục giã, thuyền xuôi trở lại dòng sông sinh tử để độ người.  Những chiếc thuyền này ví như những vị Tỷ-kheo đã diệt tận năm hạ phần Kiết sử, tiếp tục tu hành, loại trừ luôn các nhận thức sai lầm về Sắc ái, Vô sắc ái, Trạo cử, Mạn và Vô minh gọi là năm thượng phần Kiết Sử. Vị này đã tận diệt mười nguyên nhân đưa đến khổ đau phiền não, dẹp sạch lậu hoặc, chứng quả A-La-Hán, thoát khỏi luân hồi sinh tử. Với lòng từ bi thương chúng sanh còn vô minh, các Ngài bước xuống dòng sông đời, tức dòng sông sinh tử, để độ người thoát khổ qua kinh nghiệm của các Ngài. Những vị này được đức Phật xếp là hạng người đã vượt qua bờ bên kia, đứng trên đất liền.

Tóm lại bốn loại thuyền ngược xuôi trên dòng sông tham ái, chính là bốn hạng người sống trên đời này. Sống ở đời ai cũng muốn được an lạc hạnh phúc, nhưng hạnh phúc an lạc cũng có hai loại. Loại say mê hưởng thụ dục lạc thế gian dễ khiến con người sa vào ác đạo. Tu tập vượt ra ngoài thế gian sẽ giúp con người đạt được thánh quả.

Với hạng người thứ nhất, là những người chưa biết Phật pháp thì họ sống thuận theo đòi hỏi của bản năng, của dục vọng làm những điều xấu ác để đạt được ước vọng hạnh phúc của bản ngã. Họ không biết rằng sống như thế sẽ khiến họ phải chịu cảnh luân hồi sinh tử, tử sinh … trong lục đạo từ đời này sang đời khác .

  (1)  “Những ai sống ở đời

Không chế ngự các dục

Không từ bỏ ly tham

Thọ hưởng các dục vọng

Họ đi đến sanh già

Đến rồi lại đến nữa

Bị khát ái trói buộc

Họ đi thuận dòng đời “ ( hết trích)

Loại người thứ hai là những người sống đạo đức, không thọ hưởng dục lạc, giữ giới hạnh thanh tịnh.  Hằng ngày làm lành tránh dữ, sống trong chánh niệm tức giữ tâm ý trong sạch, dù cho có phải chịu đựng những khó khăn, ngập tràn nước mắt, họ vẫn chấp nhận đi ngược dòng đời. Đây là loại người chịu khổ trước sướng sau.  

  (2)  “ Do vậy bậc có trí

Ở đời, trú chánh niệm

Không thọ hưởng các dục

Không hành trì điều ác

Dẫu chịu sự khổ đau

Từ bỏ các dục vọng

Họ được gọi hạng người

Đi ngược lại dòng đời “ (hết trích)

Loại người thứ ba là những người từ bỏ gia đình, chọn đời sống xuất gia tu tập mở mang trí tuệ, có Chánh kiến tức kiến thức đúng đắn diệt trừ được năm phiền não do: Tham, Sân, Nghi hoặc, Thân kiến, Giới cấm thủ mang đến. Các vị này đạt được quả vị Bất Lai. Khi thân hoại mạng chung sẽ hóa sanh về cõi Tịnh Cư Thiên, tại đấy nhập Niết-bàn, không còn trở lại đời này nữa nên gọi là người tự đứng lại.

               (3) “Những ai quyết đoạn tận

Năm phiền não kiết sử

Bậc hữu học viên mãn

Không còn bị thối thất

Đạt được tâm điều phục

Các căn được định tĩnh

Vị ấy được gọi là

Người đã tự đứng lại.” (hết trích)

Loại thánh tăng thứ tư là những vị A-La-Hán đã không còn bị dính mắc vào hai cõi Sắc (Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền) và Vô Sắc (Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô Sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ). Nghĩa là khi tọa thiền có an lạc không thích thú, không trụ vào sự an lạc đó, cũng không có tâm ý mong muốn đạt được cảnh giới nào trên con đường tu tập. Tâm của vị đó không còn bị dục ái, sắc ái và vô sắc ái tác động, nên hoàn toàn yên lặng tức không còn trạo cử.  Không trạo cử, không chấp ngã, không còn lo sợ mất cái thân do năm uẩn kết hợp nữa nên dẹp được ngã mạn (không ta, không của ta, không tự ngã ).  Vị ấy đã diệt tận các lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự mình thắng trí, chứng ngộ bản thể thật của thân tâm mình, thấy biết rõ bản chất thật của hiện tượng thế gian, rằng tất cả đều không thực chất tính nên Vô thường-Khổ-Vô ngã. Nhận thức của vị ấy vượt ra ngoài thế gian, an trú trong vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Bấy giờ không còn một phiền não nào ngăn che trí tuệ của vị đó nữa.  Trí tuệ sáng suốt khởi lên sự hiểu biết:  “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa”. Đó là vị ấy đã chứng quả A-La-Hán .            

               (4) “Đối các pháp thắng liệt

                        Vị ấy được giác tri

                        Đã được quét, quạt sạch

                        Các pháp được chấm dứt

                        Vị ấy bậc trí giả

                        Phạm hạnh được thành tựu

                        Được tên gọi danh xưng

                        Bậc đã đi đến nơi

                        Chỗ tận cùng thế giới

                        Bậc đã đến bờ kia.” (hết trích)

                                              III. KẾT LUẬN

Gút lại, qua bài pháp ngắn này, đức Thế Tôn đã minh họa một bức tranh vô cùng sống động. Đó là cảnh trên dòng sông có nhiều thuyền bè qua lại. Người xem nhìn thấy có những chiếc thuyền con lơ lửng vô tư nhàn hạ trên sông, cũng có những chiếc thuyền thuận theo những đợt sóng đẩy nhanh về phía trước, cũng có chiếc chậm chạm một cách mệt nhọc vì ngược dòng. Cảnh sông nước thuyền bè lung linh ẩn hiện hình ảnh cuộc đời, mỗi chiếc thuyền là hình ảnh một con người sống trên cõi đời này. Là một bậc giác ngộ, đức Thế Tôn đã nhìn thấy trên đời này có bốn hạng người hiện hữu. Đó là hạng người thuận dòng, hạng người ngược dòng, hạng người tự đứng lại và vị thánh A-La-Hán đã giải thoát ra khỏi luân hồi sinh tử.  Qua hình ảnh các hạng người này, đức Thế Tôn đã không kêu gọi chúng ta phải trở thành hạng người này hay hạng người kia, mà Ngài chỉ khai mở cho chúng ta thấy cách sống của mỗi hạng người sẽ đưa đến hậu quả khổ đau hay an lạc hạnh phúc thực sự. Việc còn lại là sự chọn lựa của mỗi người trong chúng ta mà thôi!

                                  Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

                                                  THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

                                        (Chân Tâm thiền thất, Dec 5/2022)

(1) (2) (3) (4):  Tăng Chi Bộ Kinh, chương 4, phần Thuận Dòng (văn vần)

Tắm Rửa Nội Tâm

Thích Nữ Hằng Như

                                                             I. DẪN NHẬP

Tắm rửa là việc làm cần thiết để giữ gìn vệ sinh thân thể.  Những người làm việc ở văn phòng có máy điều hòa không khí, hay những người làm việc lao động ngoài trời, hoặc những người suốt ngày không làm gì cả. Dù là ai, thì người đó cũng có nhu cầu tắm rửa ít nhất là một hoặc hai lần trong ngày. Nước và xà phòng giúp tẩy rửa bụi bặm bám vào tóc tai da thịt và cuốn trôi chất mồ hôi tiết ra từ trong cơ thể. Sau một ngày làm việc mệt mỏi, khi về nhà để có bữa cơm với các thành viên trong gia đình một cách vui vẻ, thoải mái và ngon miệng, người ta cần phải tắm rửa sạch sẽ bản thân mình. Hay trước khi ngã lưng xuống giường nghỉ ngơi, người ta cũng thường phải tắm rửa một phát cho thân thể được sạch sẽ mát mẻ. Thử không tắm rửa một ngày người ta sẽ cảm thấy thân thể dơ bẩn, tâm tư bực bội, khó chịu. Cho nên việc tắm rửa vệ sinh thân thể được xem là việc làm cần thiết, không thua kém gì việc người ta phải ăn khi đói, phải uống khi khát, phải nghỉ ngơi khi mệt, hay phải đi Bác sĩ khám khi mắc bệnh. Đó là nói về thân thể. Nhưng một người được xem là hoàn hảo thì người đó phải có hai phần thân và tâm toàn vẹn.

Thân là phần thể xác, có hình vóc, nên người ta có thể trông thấy và va chạm. Còn tâm là phần tinh thần,  tinh thần thì siêu hình không ai có thể nhìn thấy hay sờ mó được. Tuy siêu hình nhưng tâm chính là cái biết, là ý thức, là chủ thể ra lệnh cho thân làm việc theo ý muốn của nó. Tâm buồn khổ thì mắt rơi lệ. Tâm khó chịu thì mặt mày nhăn nhó. Tâm sân hận thì mặt bừng đỏ, mắt long lanh trợn trừng. Tâm e thẹn thì vẻ mặt bẻn lẻn. Tâm vui vẻ thì môi nở nụ cười. Tâm nghĩ tốt thì thân hành động tốt. Tâm nghĩ xấu thì thân hành động xấu v.v… Nói cách khác tâm chính là một phần sự sống của con người.

Con người sống mà không biết gì cả thì sống cũng cầm bằng như đã chết. Vậy mà đa phần người ta sống ở trên đời này, hình như quên mất phần tinh thần, quên mất cái tâm. Họ quên rằng tâm cũng có nhu cầu chăm sóc tắm rửa làm vệ sinh như thân thể vậy! Nếu ai đó đề cập đến việc chăm sóc tắm rửa tâm, sẽ có người nói rằng tâm không có hình tướng thì làm gì có dơ bẩn, hay tâm không có hình tướng thì lấy cái gì để tắm rửa vệ sinh.

 II. TÂM Ô NHIỄM, NHIỀU BỆNH TẬT CẦN TẨY RỬA

Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm không có hình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn. Trong giáo lý nhà Phật, tâm bệnh hoạn là khi tâm bị những chất ô nhiễm làm dơ bẩn tâm. Cần tắm rửa loại trừ những chất bẩn này, thì tâm mới bình an khỏe mạnh.  Những chất ô nhiễm đó chính là những căn bệnh được đặt tên là tập khí, lậu hoặc, kiết sử, tùy miên. Các bệnh này chứa chấp những đam mê thương ghét, hận thù, nó trói buộc con người vào những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến.  Nặng nề hơn nữa là căn bệnh chấp ngã. Vì chấp ngã nên sinh ra các biến chứng khác như ngã ái, ngã dục, ngã kiến, ngã chấp. Vì chủ quan nên tâm tưởng thường méo mó luôn có thành kiến, định kiến, thiên kiến. Ngoài ra tâm còn có căn bệnh say mê ngũ dục như tài, sắc, danh, thực, thùy, khiến thọ, tưởng, hành, thức luôn dao động, đưa đẩy con người nhìn cuộc đời bằng cái tâm ích kỷ, phân biệt, nhị nguyên tốt xấu, thương ghét, ưa hay không ưa, mong muốn cái này là của mình, cái kia là của mình v.v… Từ những tư tưởng xấu xa trong tâm đưa đến hành động, lời nói, gây tổn thương cho chính mình và những người xung quanh, đồng thời tạo ra không biết bao nhiêu là nghiệp nhân bất thiện.

Do những quấy rầy liên tục xảy ra như vậy khiến tâm con người luôn bất an, tinh thần không lúc nào được ổn định. Để chấm dứt tình trạng này, tâm cần được tẩy rửa làm vệ sinh để trị dứt những căn bệnh gây phiền não cho con người. Xưa kia, Ngài Thần Quang sau này là Nhị Tổ Huệ Khả (Thiền Tông, Trung quốc), đã không ngần ngại chặt đứt cánh tay của mình làm lễ vật dâng lên Tổ Bồ Đề Đạt Ma để cầu pháp thiền “an tâm”.

Trở lại việc tắm rửa làm vệ sinh thân thể thì ai làm cũng được, chỉ cần xử dụng xà phòng, nước, cùng hai bàn tay kỳ cọ chà xát khắp châu thân. Những chất dơ bẩn sẽ bị nước và xà phòng cuốn trôi để lại thân thể sạch sẽ thơm tho.  Nhưng tắm rửa thân thể trong nhà Phật không phải là tắm rửa hằng ngày cho thân thể vật lý được sạch sẽ, mà tắm gội thân thể ở đây cũng giống như tắm rửa làm vệ sinh nội tâm, là tu tập để giữ ba nghiệp thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Cho nên tắm rửa thân tâm không phải chỉ một hoặc hai lần trong ngày, cũng không phải dùng xà phòng hay nước sạch để tắm, mà phải tu tập có phương pháp. Và việc tu tập không phải chỉ một ngày một bữa là đủ.

Tâm ô uế bệnh hoạn là tâm huân tập đủ mọi thứ như đã kể, cho thấy tâm này lúc nào cũng dao động, hễ niệm này vừa chấm dứt thì niệm khác sinh khởi. Cứ thế hết khởi rồi tắt, hết tắt rồi khởi, không bao giờ yên lặng, cho nên Đức Phật gọi tâm này là tâm sinh diệt, các vị Tổ thì xếp nó là vọng tâm.  Muốn tâm trở về trạng thái yên lặng thanh tịnh, bất sinh bất diệt, hay chân tâm, thì phải chính cái tâm đó tu tập, từ từ cởi bỏ những thứ mà nó đã cất giữ, lâu ngày thành nghiệp.

III. PHƯƠNG THỨC TU TẬP

Giáo lý nhà Phật dạy có bốn phương thức tu tập, đó là Quán, Chỉ, Định, Huệ. Những phương thức này nếu tu tập đến nơi đến chốn thì tẩy rửa được những ô nhiễm trong tâm.

– Tu Quán hay thiền Quán để hiểu rõ đặc tính của vạn pháp là vô thường, khổ, vô ngã, và chấp nhận nó. Chấp nhận vì biết chắc rằng mọi thứ đến rồi sẽ đi, không có cái gì là bền vững trên cõi đời này. Tiền tài, danh vọng, hay tình yêu cha, mẹ, vợ, con, nhà cửa, xe cộ, hạnh phúc đang có trong tay tưởng chừng vô cùng bền vững,  nhưng rồi sẽ có một ngày tất cả những thứ mà mình yêu mến đó sẽ vuột mất khỏi lòng bàn tay mình. Đó là những vật ngoài thân, thôi thì không bàn! Vậy chứ ngay tấm thân ngũ uẩn của con người đây thì sao? Con người khi còn trẻ thì khỏe mạnh yêu đời. Nhưng thời gian trôi qua, tuổi trẻ đi dần đến tuổi già. Một ngày, một năm trôi qua sức khỏe, sự sáng suốt của người trẻ cũng đi dần đến bệnh hoạn, già nua, yếu đuối, tâm trí không còn nhanh nhẹn sắc bén như thời còn trai trẻ nữa.  Trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikãya) ghi lại lời Đức Phật mô tả sự vô thường xảy ra trên chính thân thể Ngài như sau: “Thật vậy, này Ananda, tuổi già thay thế tuổi trẻ, bệnh tật đẩy lui sự khỏe mạnh, cái chết làm ngưng sự sống. Mầu da của ta không còn tươi tốt và trong sáng như xưa, bắp thịt chân tay ta yếu đi và da nhăn nheo, thân thể ta nghiêng về phía trước, sự thay đổi cũng thấy rõ trên các giác quan….” . Như vậy, tất cả mọi thứ trên đời này, đều sẽ tùy duyên thay đổi theo không gian thời gian. Cho nên chúng ta phải quán cho rõ, hiểu cho thấu về “vô thường, khổ, vô ngã” của vạn hữu, để tâm không chấp trước buồn khổ khi mọi thứ đột nhiên thay đổi bất như ý.  

– Thiền Chỉ là phương pháp tu tập giúp tâm dừng lại, không phóng nghĩ lung tung trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, hay ngắm cảnh v.v…. Tu Chỉ giúp tâm dần dần quen với trạng thái tâm yên lặng. Khi giác quan tiếp xúc với trần cảnh không để tâm chạy theo cái thấy, cái nghe, cái xúc chạm, khiến tâm dao động. Trong kinh gọi pháp này là “thu thúc hay hộ trì sáu căn” .  

– Thiền Định là phương pháp tu tập, chú tâm vào một đề mục để giữ tâm yên lặng. Thí dụ như mượn “hơi thở vô-ra” làm đề mục tập trung, để vọng tưởng hay năm triền cái tham, sân, hôn trầm, thụy miên và nghi ngờ không có cơ hội trồi lên. Khi hành giả nhập định sâu, sóng tâm yên lặng vững chắc. Kinh mô tả trạng thái tâm lúc này “định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, ngoài lý luận…”. Điều này,cho thấythiền Định chính là phương pháp tắm rửa làm sạch cái tâm ô nhiễm, trị dứt những căn bệnh gây ra phiền não và luân hồi.

– Thiền Huệ, bước đầu là Vipassana tức “tuệ minh sát”. Luôn giữ chánh niệm tức cái “biết như thật”, khi đối duyên xúc cảnh, tâm bây giờ và ở đây, tức là tâm không quay về quá khứ, không vọng tưởng tương lai cũng không dính mắc với dục vọng hiện tại.  Hành giả  có thể tu tập theo kinh Tứ Niệm Xứ dạy. Đó là quán bốn xứ Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Những gì xảy ra trên Thân, Thọ, Tâm, Pháp như thế nào trong khi tọa thiền, hành giả chỉ biết như thế ấy. Cái biết này là biết không lời, là tự tánh biết. Cái biết như tấm gương ghi nhận đối tượng xuất hiện trong tâm, diễn tiến và chấm dứt như thế nào thì biết y như vậy, không tác ý can thiệp.

– Trí huệ Bát Nhã  (Panna/Prajna) là trí biết của trực giác. Khi tâm an trú trong định sâu, trí huệ tâm linh tự phát. Trí này thấu hiểu mọi vạn vật, mọi sự kiện trong vũ trụ mà không cần học hỏi hay suy nghĩ phán đoán gì cả. Giai đoạn này tánh giác, hay Phật tánh, hay tiềm năng giác ngộ tự phát sang.  Trí huệ Bát Nhã là trí huệ vô sư, không còn phân biệt nhị nguyên, không còn chủ thể và khách thể. Đây là một loại trí tuệ siêu vượt của các bậc A-La-Hán, Bồ tát đã bước được qua “bờ bên kia” (paramita) là bờ giác ngộ, và nó còn phát huy đến vô thượng gọi là chánh đẳng chánh giác, là Phật.

                                                     VI. BƯỚC ĐẦU TU TẬP

Tùy theo căn cơ mà chúng ta chọn lựa pháp môn thích hợp tu tập để dễ tiến trên đường tu. Nhưng dù chọn pháp môn nào thì trước hết chúng ta cũng phải tuân theo lời Phật dạy. Phải học hỏi, tư duy giáo lý nhà Phật, để có Chánh tri kiến, nghĩa là phải có ý thức hiểu biết việc nào đúng việc nào sai. Việc nào làm khổ người, khổ mình thì nên tránh, việc nào mang hạnh phúc đến cho mình lại làm khổ người khác thì cũng không nên làm. Trong kinh thường nhắc đến bài kệ ngắn “Không làm các điều ác; Vâng làm các việc lành; Thanh tịnh hóa tâm ý”. Như vậy giáo lý nhà Phật dạy chúng sinh trước khi tu tập tiến tới giác ngộ giải thoát luân hồi sinh tử, phải nhắm đến ba mục tiêu tu hành như sau:  Thứ nhất là không có những hành động xấu ác làm hại người, hại mình, hay có lợi cho mình mà hại người. Trong kinh gọi  đó là hành động bất thiện. Thứ hai là siêng năng làm các việc thiện lành mang an lạc, hạnh phúc đến cho chúng sinh và cho cả bản thân mình. Trong kinh gọi đó là hành động thiện. Thứ ba là phần tu tâm, hành giả hành trì các pháp môn tu tập để cho tâm thức đạt được vắng lặng tỉnh thức.

Thực hành các pháp tu làm lợi lạc cho chúng sanh, hành giả ngày càng phát huy được tâm Từ, tâm Bi. Nhờ có tâm Từ thương chúng sanh nên hành giả mới phát tâm Bi làm việc thiện lành bố thí, giúp đỡ, an ủi mọi người. Và vì mới tu tập nên ý thức luôn dặn dò mình nên giữ niệm thiện, xa lìa niệm ác. Tuy tâm còn phân biệt, còn chọn lựa nhị nguyên, nhưng nhờ chọn tâm thiện lành đưa đến hành động thiện lành. Kết quả người được giúp an vui, từ đó tâm trí hanh giả cũng được an vui.

Muốn tiến thêm trên con đường tâm linh thì hành giả bước thêm một bước nữa. Đó là quán câu hỏi của Tổ Huệ Năng “không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là “bản lai diện mục” của Thượng Tọa Minh? ”. Bản lai là xưa nay, diện mục là bộ mặt thực. Khi tâm không khởi niệm thiện, cũng không khởi niệm ác, lúc đó tâm rơi vào vô niệm, tức không có niệm nào khởi lên cả.  Khi tâm không còn niệm nào hết, tâm trống rỗng, chỉ có dòng nhận thức không lời đó là “bản lai diện mục” là bộ mặt thật, là chân tâm, là tánh giác, hay Phật tánh. Lúc đó tâm hành giả ở trong trạng thái Xả (vô niệm hay vô tâm) tức tâm vắng lặng mà tỉnh thức, không còn dính mắc chấp trước bất cứ một thứ gì trên đời này cả.

                                                    VII. PHÁP TU LỤC ĐỘ

Trong kinh Đại thừa dạy pháp tu “Lục độ” gồm: Bố thí, Trì giới,  Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Hành giả có thể tắm rửa làm vệ sinh cho cả thân và tâm qua  đường tu “Lục độ”.

– Tu hạnh bố thí: Giúp đỡ những người thiếu thốn nghèo khổ bằng tiền tài vật chất, bằng lời nói an ủi, bằng chỗ dựa tinh thần v.v… Đây là hành giả thực hành lời Phật dạy làm việc thiện lành mang niềm vui, hạnh phúc, xoa dịu nỗi lo âu, sợ hãi của chúng sanh. Tu hạnh bố thí giúp cho hành giả diệt trừ bớt lòng tham, san bằng lòng ganh ghét, đố kỵ, phát triển tâm Từ tâm Bi ngày một nhiều hơn.

– Trì giới: Người Phật tử tuân giữ năm giới cấm:  Không giết hại mạng sống của người hay thú vật. Không lấy của không cho. Không tà hạnh. Không nói dối. Không xử dụng những chất say nghiện làm lu mờ lý trí. Trì giữ không phạm giới cấm giúp cho hành giả dừng lại trước hàng rào phân chia đạo đức và tội ác. Nhờ vậy hành giả không phạm lỗi,  giữ được ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh.

– Hạnh nhẫn nhục: Là hạnh chịu đựng những khó khăn, trở ngại, quyết  không lùi bước trên đường tu. Không sanh tâm khởi niệm khi tiếp duyên xúc cảnh. Người tu hạnh nhẫn nhục sẽ loại trừ được tâm Sân hận. Sân hận bị xem là chất độc nguy hại trong ba độc tham, sân, si.

– Tinh tấn: Có ý chí và nghị lực không lùi bước trước những nghịch cảnh trên đường tu, quyết siêng năng phấn đấu tu tập vượt qua biển sinh tử để đến bờ giác ngộ. Tinh tấn là nhiên liệu cần thiết hỗ trợ cho việc tu hành miên mật không giải đãi lười biếng.

            – Thiền định: Tập trung tư tưởng vào một đề mục để giữ nội tâm yên lặng, không một niệm nào khởi lên trong tâm. Có vị thiền sư định nghĩa: “Thiền là bên ngoài không dính mắc vào trần cảnh, định là nội tâm yên lặng” thật là chính xác.  

Thiền định là phương pháp tắm rửa vệ sinh cái tâm ô nhiễm thành thanh tịnh trong sáng là phương thuốc hữu hiệu điều trị những căn bệnh về thân và tâm. Nhờ định lực vững chắc nên tâm bình thản trước mọi sóng gió của cuộc đời. Tóm lại, thiền định giúp tâm sạch sẽ, yên lặng (thanh tịnh). Thanh tịnh là phương tiện để đi đến cứu cánh là trí tuệ.

            -Trí tuệ Bát Nhã: Đức Phật là bậc giác ngộ vô thượng, là thầy của trời người,  nên chúng đệ tử của Phật cũng hướng tới mục tiêu giải thoát giác ngộ như Ngài. Trí tuệ Bát Nhã là trí tuệ siêu việt, quán triệt chân tướng của vạn pháp.  Đây là trí huệ của chư bậc Bồ tát, chư Phật.

Lục độ” là sáu cách tu tập. Tuy chư Tổ phân chia như vậy, nhưng cả sáu pháp đều liên hệ mật thiết với nhau. Khi thực tập pháp này thì năm pháp kia có mặt để hỗ trợ. Ghi chú: Trong kinh Phát Triển cũng có dạy pháp môn “Lục độ Ba-la-mật”. Lục độ ba-la-mật cũng là sáu phương pháp tu tập như lục độ, nhưng pháp này cao hơn dành cho các bậc Thánh, bậc A-la-hán. Hiện tại, chúng ta hãy còn là người phàm phu nên bước đầu thực hành “lục độ” để chuyển tâm phàm thành tâm thánh. Rồi từ đó tiến tu thêm.

VIII. KẾT LUẬN

Tóm lại con người có hai phần thân và tâm. Cả thân và tâm đều quan trọng như nhau. Tâm gá vào thân để hiện hữu. Thân nhờ tâm chủ trì hướng dẫn để xử sự và hành động. Trên đường tu giải thoát giác ngộ, Kinh dạy “nhận thức và hành vi” phải thanh tịnh, tức thân và tâm phải thanh tịnh. Vì trí tuệ và căn cơ của chúng sanh khác nhau, cho nên Đức Phật mới bày ra nhiều pháp tu. Pháp tu có khác nhưng pháp nào cũng nhắc nhở chúng sinh phải giữ tâm ý ngay thẳng trong sạch. Tâm ý có trong sạch thì hành vi mới trong sạch.  Cho nên cốt lõi của việc hành trì tu tập để thân và tâm đi đến chỗ thanh tịnh là phải thiền định và thiền huệ.

Chúng tôi xin chép lại Lời Phật Dạy (Kinh Pháp Cú) qua Phẩm Song Yếu dưới đây để tạm ngưng bài viết với chủ đề “Tắm Rửa Nội Tâm”.

1) Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác, nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo:

“Ý dẫn đầu các pháp

 Ý làm chủ, ý tạo

 Nếu với ý ô nhiễm

 Nói lên hay hành động

 Khổ não bước theo sau

 Như xe chân, vật kéo. 

2) Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói hoặc làm với tâm thanh tịnh, sự vui sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình.

“Ý dẫn đầu các pháp

Ý làm chủ, ý tạo

                        Nếu với ý thanh tịnh

                        Nói lên hay hành động

                        An lạc bước theo sau

                        Như bóng, không rời hình.

                                         (Kinh Pháp Cú-Phẩm Song Yếu)

    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật                                        

                                                                       THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

                       (Chân Tâm thiền thất, Sept 16/2022)